Có một nơi mọi người đủ mọi lứa tuổi, từ mọi nơi, gặp nhau mỗi tuần một lần, hàng tháng cùng nhau đi dã ngoại để luyện tập, để cười vui, để chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện. Đó là chính là Câu lạc bộ Dưỡng sinh Năng lượng thuộc chi hội y học Esperanto - Hà Nội của chúng tôi. "Vui, khỏe, sống có ích cho đời" là mục tiêu của Câu lạc bộ chúng tôi.
Đề nghị ghi rõ nguồn http://luatamuoi.com/ khi sao chép những bài viết chia sẻ từ trang Câu lạc bộ DSNL.
Mọi liên hệ xin gửi về một trong 3 địa chỉ ở mục LIÊN HỆ. Xin trân trọng cảm ơn."

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Sưu tầm và cảm nhận đôi chút về bệnh tật và con người

Đinh Xuân Sinh
(Học viên lớp sáng thứ 7)
 Đi thiền sớm (Côn Sơn tháng 8/2011)
Cơ thể con người là bộ máy sinh học bí ẩn và hoàn thiện nhất của vũ trụ, mà bộ máy sinh học này hoạt động được là nhờ “cơ chế tự điều chỉnh” của con người. Các nền y học của loài người cho đến nay cũng đã nghiên cứu con người với tư cách là “tiểu vũ trụ”, phản chiếu vũ trụ và cho rằng: “cơ thể con người là sự hóa thân của bản thể vũ trụ”. 
Vũ trụ = Âm + Dương. Âm Dương là một > vũ trụ > con người (Thiên nhân hợp nhất). Mà quy luật của vũ trụ là: sinh ra > phát triển > tiến hóa > hủy diệt.
Và quy luật đời người: sinh > lão > bệnh > tử (trùng hợp với quy luật của vũ trụ.
Lý thuyết vũ trụ hiện đại qua vụ nổ lớn Big Bang cách đây 13 tỷ năm. Lý thuyết dãn nở vũ trụ do nhà bác học TS Alan Gunt công bố: “vũ trụ chỉ là một điểm vật chất vô cùng nhỏ (co rút – âm tụ) với mật độ vô cùng lớn gọi là điểm lớn nhất. điểm vật chất này dãn nở nhanh (dương tán) phát triển, tiến hóa thành vũ trụ.
Co rút – dãn nở (hoặc Âm tụ - Dương tán) của thái cực chính là sự biến dịch của Âm Dương của vũ trụ theo chu trình khép kín (như hoàn vô đoan) không có khởi đầu, không có kết thúc.
Vậy muốn làm thăng hoa con người về sức khỏe và trí tuệ thì phải nghiên cứu về cấu trúc nhân thể với hai bộ phận chính của con người là:
a, Tiểu ngã – phần vật chất (hữu hình) gắn với đất (Khôn )
b, Đại ngã – phần vô hình (tâm linh) gắn với trời (Càn).
Đến thế kỷ 21 này, loài người đã phát triển các nền y học như:
  • Y học hiện đại ( Tây y – phát triển rất cao)
  • Y học cổ truyền ( y học bổ xung) như Đông y, châm cứu, bấm huyệt… ra đời rất sớm, ngự trị cả ngàn năm.
  • Các phương pháp thiền, yoga, khí công trường sinh học, ngoại cảm… chưa được xã hội hóa vì tính siêu nhiên của nó.
Những phương pháp chữa bệnh bằng hóa dược và các máy móc tinh xảo của Tây y (y học hiện đại) không căn cứ vào cơ chế tự điều chỉnh của con người để tìm giải pháp điều trị và cũng không hỗ trợ được gì cho cơ chế này. Có khi còn làm suy yếu nó. Vì phương pháp này chỉ chữa ở nơi bệnh phát ra, chứ không căn cứ vào “gốc” bệnh – nơi sinh ra bệnh, nên chỉ đưa ra phương pháp điều trị phiến diện, tách rời con người với thiên nhiên, đánh mất bản thể vốn có mà tạo hóa (vũ trụ) đã ban cho con người. Y học hiện đại cho rằng bệnh phát sinh là do rối loạn tâm sinh lý và vi khuẩn cộng với vi rút. Từ đó đưa ra giải pháp dùng hóa dược để hóa giải. Thuốc là con dao hai lưỡi mất dần tác dụng (nhờn thuốc) để lại di chứng rất hại cho cơ thể con người. Chẳng hạn thuốc giảm đau, thuốc hạ huyết áp ( theo ngành y tế thế giới, khi kiểm tra 100 bệnh nhân bị huyết áp cao thì chỉ mới xác định được 15 bệnh nhân thực sự là có nguyên nhân, còn 85 bệnh nhân được kết luận là không ró nguyên nhân). Trong 15 người bệnh được xác định rõ, bao gồm hai nguyên nhân chính sau:
a, Do thận (chức năng hoạt động của thận)
b, Do các tuyến nội tiết (mất cân bằng chức năng hoạt động của hóc- môn).
Còn 85 người không rõ nguyên nhân, cũng như 15 người rõ nguyên nhân, mỗi khi huyết áp tăng, bệnh nhân lập tức được đưa vào bệnh viện cấp cứu bằng thuốc đặc trị (hóa dược) của dạng huyết áp cao có nguyên nhân. Tuy nhiên khi ra viện, người bệnh vẫn phải uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ (giống như bệnh tiểu đường - uống thuốc suốt đời). Vậy là 85 người bị huyết áp cao không rõ nguyên nhân (tạm gọi là huyết áp ảo – không thật) cũng vẫn phải uống thuốc suốt đời. Thậm chí khi huyết áp đã trở lại bình thường (đôi khi thấp) người này vẫn không dám bỏ thuốc vì lẽ di chứng của huyết áp cao sẽ gây ra tai biến mạch máu não hoặc đột quỵ. Cả hai di chứng này đều để lại hoặc liệt nửa người hoặc chết đột ngột. Vì vậy phải tìm đến gốc dễ, căn nguyên để điều trị bệnh mới có kết quả. Nghĩa là phải chữa tận gốc chứ không chữa ngọn.
Trước khi tham gia lớp thiền, tôi cũng bị huyết áp cao nhưng không rõ nguyên nhân. Vậy là tôi bị liệt vào nhóm 85% người bị huyết áp ảo. Nhưng tôi vẫn lo lắm, mặc dù tôi tham gia CLB DSNL này được hơn 9 tháng rồi. Chỉ số huyết áp của tôi bây giờ thường là 120 - 130/60 - 70, nhưng tôi vẫn không dám bỏ thuốc (chỉ sử dụng ½ số lượng mà bác sỹ đã chỉ định).
Trong CLB chúng ta, Thầy vẫn nói: “thiền là phương pháp tốt, trị bệnh tận gốc”, thiền như cái thuổng đào tận gốc rễ. Trên đây là nói về Tây y.
 Hồi hộp chờ xem kết quả luyện tập của mình
Đông y thì cho rằng cơ thể mất quân bình Âm – Dương sẽ phát sinh bệnh tật. Khi cơ thể bị bệnh, thầy Đông y bắt mạch, rồi bốc thuốc để cân bằng Âm Dương. Thuốc Đông y có khá hơn vì lấy cây cỏ từ thiên nhiên để điều trị, nhưng vẫn là thuốc. Thuốc này cũng chỉ chữa ngọn và cũng có độc hại, để lại di chứng. Còn châm cứu, dùng kim châm vào da thịt đã dần trở lên lạc hậu so với thời đại, khiến người bệnh muốn có các phương pháp chữa bệnh mới với tính năng hiệu quả hơn. Giả dụ phải nghiên cứu con người ở trạng thái “động” và biến dịch để đưa ra giải pháp theo hướng tự nhiên, phù hợp với quy luật tự nhiên. Như nguyên lý ”quân bình năng lượng” chẳng hạn.
Con người là chủ thể - là gốc, bệnh tật chỉ là ngọn. Cơ thể sinh ra được cái gì thì tự thân nó cũng làm tiêu biến được cái đó (ví dụ: u nhọt sinh ra thì tự thân nó cũng tiêu biến nhờ năng lượng dự trữ trong cơ thể được huy động để chống lại). Vì trong các trị liệu tâm linh có ba cơ chế khác nhau (theo ông Hoàng Chu viết trong “tiến tới một nền y học nhân văn”):
  • Hiệu ứng mẹ Teresa (hệ miễn nhiễm)
  • Tác dụng Placebo (giả dược trong cơ thể chiếm 40%)
  • Khả năng tự chữa bệnh của cơ thể (cơ chế tự điều chỉnh)
Ba cơ chế này thực chất là năng lượng sinh học được bình quân trong cơ thể. Phải “đánh thức” được một trong ba cơ chế này để giúp cơ thể bình quân năng lượng chống lại bệnh tật.
Các phương pháp phòng và chống bệnh theo tự nhiên là không dùng thuốc, không dùng kim châm… được áp dụng triệt để như: thiền, yoga, khí công, trường sinh học, tâm linh… đều là phương pháp tự nhiên, có khả năng đánh thức “ cơ chế tự điều chỉnh” của cơ thể mà không cần đến hóa dược.
Thiền là một phương pháp chữa bệnh nằm trong cơ chế (tâm linh) tự chữa của cơ thể. Thiền có khả năng làm thăng hoa sức khỏe và trí tuệ con người. Nó cũng rất phù hợp với định nghĩa về sức khỏe của WHO về ba mặt của cuộc sống, đó là: “sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tinh thần, và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật”.
Khi y học hiện đại phương tây đang hướng về y học phương đông, y học dân tộc và đang khám phá ra những bí ẩn của nền văn minh phương đông - trong đó thừa nhận “Thiền” là phương pháp có tác dụng mạnh mẽ lên cả trí não và cơ thể (thể chất và tinh thần). Nó có thể cải thiện được chất lượng cuộc sống và các chức năng của cơ thể.
Đức Phật Thích Ca là nhà tiên tri, là Phật dược từng dạy: “Tâm bệnh sinh thân bệnh” và cũng chính Đức Phật đã nhìn thấy số lượng vi trùng có trong bát nước từ hơn 2.500 năm trước đây, để đến ngày nay y học hiện đại phương tây mới đi vào nghiên cứu các bệnh “Căn nguyên tâm thể” .
Như trên đã biết về tiểu ngã (phần vật chất hữu hình), và đại ngã (phần vô hình – tâm linh) lấy tâm làm trụ, từ tâm ra rồi trở về tâm. Tâm bệnh (bệnh vô hình) khó chữa được bằng thuốc và máy móc tinh xảo, mà chỉ có thể chữa được bằng tâm lý của chính người bệnh. Bệnh sinh ra từ Tâm – Tâm càng đau khổ, phiền não thì bệnh càng nặng thêm. Vì vậy chữa bệnh phải chữa từ tâm mình, tức là đã phá bỏ được quan niệm thầy thuốc là chủ thể.
Vì theo Tây y, chữa bệnh là sự can thiệp vào cơ thể sống của con người. Còn theo y học mới (theo Hoàng Chu “Y học nhân văn”) thì người bệnh là chủ thể - người là gốc, bệnh là ngọn. bệnh phải được chữa từ Tâm, vì “Tâm bệnh sinh thân bệnh” (theo Đức Phật).

 Ngồi thiền tại đền thờ cụ Trần Nguyên Đán
Ở CLB DSNL của chúng ta có rất nhiều ví dụ điển hình về chữa bệnh từ tâm, từ thiền thu lửa tam muội như bà Thoa chẳng hạn. Bà bị ung thư ở nhiều vị trí trong cơ thể, bị gút, mỡ máu cao, nhưng như bà nói: “Thiền lửa tam muội, tôi được xóa án tử hình”. Hoặc như chị Bình, anh Hà bị u não, mờ mắt. Rồi chị Hồ, chị Hiền, chị Loan, chị Nhâm… đều bị các bệnh ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư phổi, tuyến giáp, xương… đều qua được hiểm nghèo cũng do tập luyện thiền để “cơ chế tự điều chỉnh” của mình chữa bệnh cho mình. Và chị Tươi đã từng phải mổ 3 lần, vì:
- Cắt 2/3 dạ dầy do viêm loét
- Mổ viêm phúc mạc
- Cắt 12cm ruột non do hoại tử.
Chị còn bị tiểu đường, huyết áp cao, hoại tử ngón chân cái, chị cũng đã thiền để tự chữa bệnh và nâng cao sức khỏe rất tốt.
Về nam giới nổi bật có bác Vân, anh Nghĩa, anh Chuyền… vừa thiền để nâng cao sức khỏe cho bản thân vừa tiếp thu tốt những phương pháp chữa bệnh cho người khác và hỗ trợ Thầy trong các buổi luyện tập, trong các công việc của CLB.

Đặc biệt là trường hợp bà Trần Thị Tỵ (sinh năm 1929) là hội viên của CLB DSNL của chúng ta từ năm 2005. Bà bị 10 loại bệnh, bà đã tham gia các lớp học như: lớp võ thái cực trường sinh, lớp khí công dưỡng sinh, lớp tĩnh công dưỡng sinh… để mong tự chữa được những bệnh của mình đã mắc phải. Thực tế, cả ba môn phái luyện trên đều là luyện thiền để nâng cao sức khỏe và chữa bệnh, nhưng cách thức và phương pháp truyền thụ của thầy trò các môn phái này chưa thực hiện được mục đích đưa con người trở về cái bản thể vốn có để chống lại bệnh tật, để làm thăng hoa trí tuệ và sức khỏe của con người. Bà Tỵ đã bỏ cuộc và đến tháng 10 năm 2005, bà được bà Ngô Thị Thoa giới thiệu đến lớp “Thiền Lửa Tam Muội” ở CLB DSNL mới trụ lại được. Bà Tỵ công nhận: “Tôi đã qua học luyện thiền các môn phái khác nhau như thiền tĩnh, thiền động… nhưng không có được những bài thiền như 10 bài thiền của môn phái này (Thiền Lửa Tam Muội), nên tôi rất phấn khởi và tin tưởng (để luyện tập) vì khó có một tổ chức học tập luyện thiền nào mang tính khoa học và đầy tình nghĩa như ở đây”.

Điều đó chứng tỏ Thầy Chủ nhiệm CLB của chúng ta đã tiếp thu được bản chất tinh túy nhất của môn phái thiền do Đức Thầy Tổ Dasira Narada sáng tạo ra mà Thầy đã lĩnh hội được. Cộng với sự dày công nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi thực nghiệm và đúc kết lại qua kinh nghiệm của bản thân [(Thầy đã tham gia học nhiều lớp về giải phẫu sinh lý, bệnh học, y học cổ truyền. Có lần thầy đã đi theo học hỏi ở Việt Thiền. Thầy đã thực nghiệm môn Dưỡng sinh năng lượng qua luyện tập thiền… Thầy nghiên cứu rất nhiều tài liệu như: “luyện thở”, “khí công”, “dưỡng sinh năng lượng học”, “thiền và những vấn đề tu luyện”, “từ thuốc tới thiền”…)
Đến bây giờ Thầy đã đúc kết một câu rất hay: “Thiền là phương pháp thu năng lượng của vũ trụ vào cơ thể để biến nó thành công năng, làm thay đổi tâm tính, biến chất đen thành chất trắng, biến ốm thành khỏe, khí huyết trong cơ thể lưu thông, con người trở nên khỏe mạnh, minh mẫn, sáng suốt, vui vẻ và hòa đồng vào bản chất của vũ trụ…”] để vận dụng vào thực tiễn.
Với tấm lòng nhân đức cao cả, Thầy đã mở các lớp dạy thiền (không thu tiền) và thành lập CLB DSNL đặng góp phần làm thăng hoa con người cả về sức khỏe và trí tuệ, mong hoàn thiện mỗi người chúng ta về 3 mặt Chân – Thiện – Nhẫn.  

Nói về những trường hợp bệnh tật của học viên trong CLB chúng ta ở những dạng khác nhau với những cơ thể khác nhau, nhưng đều được các anh chị tự chữa bằng tâm lý, bằng tập luyện thiền, bằng năng lượng trong cơ thể, bằng cơ chế tự điều chỉnh, bằng ăn uống khoa học hoặc có thể bằng cả khí công, day bấm huyệt, yoga… mà không phải dùng thuốc hoặc dùng ít thuốc, dẫn đến bỏ hẳn thuốc (dùng tâm linh chữa bệnh). Đó là điều mong ước cuối cùng của các thầy cô, của CLB và của chúng ta nữa, để góp phần vào kho tàng y học dân tộc, y học cổ truyền của nhân dân ta thêm phong phú.
Hà nội tháng 9 năm 2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.