Có một nơi mọi người đủ mọi lứa tuổi, từ mọi nơi, gặp nhau mỗi tuần một lần, hàng tháng cùng nhau đi dã ngoại để luyện tập, để cười vui, để chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện. Đó là chính là Câu lạc bộ Dưỡng sinh Năng lượng thuộc chi hội y học Esperanto - Hà Nội của chúng tôi. "Vui, khỏe, sống có ích cho đời" là mục tiêu của Câu lạc bộ chúng tôi.
Đề nghị ghi rõ nguồn http://luatamuoi.com/ khi sao chép những bài viết chia sẻ từ trang Câu lạc bộ DSNL.
Mọi liên hệ xin gửi về một trong 3 địa chỉ ở mục LIÊN HỆ. Xin trân trọng cảm ơn."

Hiển thị các bài đăng có nhãn dưỡng sinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn dưỡng sinh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016

10 quy luật dưỡng sinh cổ xưa

(Nguồn: daikynguyenvn.com) - Y học hiện đại ngày càng phát triển nhưng vẫn không dễ dàng lý giải được nhiều bí ẩn trong y học cổ xưa, có nhiều điều không thể chứng minh mà chỉ có thể công nhận. Đặc biệt là những nguyên lý về dưỡng sinh, về những quy luật âm dương, ngũ hành…

1. Giấc ngủ là yếu tố quan trọng hàng đầu
Trong những nguyên tắc dưỡng sinh của Trung Y, chất lượng giấc ngủ là điều kiện được đưa lên hàng đầu. Đặc biệt, nếu mất ngủ vào giờ Tý (11h đêm – 3h sáng), thận sẽ bị hư tổn. Hơn nữa, thận có tính thủy, tim có tính hỏa, ngũ hành giảng thủy khắc hỏa, thận suy sẽ khiến hỏa vượng, làm tim bất ổn, dễ hao tổn tinh thần.
Chưa dừng lại ở đó, nếu có tâm tư bất an trước khi đi ngủ cũng là điều không tốt. Chớ nên trằn trọc để tránh bị hao tâm tổn sức. Hãy nhớ cho ‘tâm’ ngủ trước rồi thân mới ngủ yên được.

2. Bệnh tật của lục phủ ngũ tạng do “thất tình lục dục”
Về mối quan hệ của “thất tình lục dục” đối với sức khỏe, “Hoàng đế nội kinh” từ sớm cũng đã chỉ rõ: “Nộ (cáu giận) thương gan, hỉ (vui quá mức) thương tim, ưu (buồn) thương phổi, tư (nghĩ ngợi quá nhiều) thương tỳ, khủng (sợ hãi) thương thận.”
Như vậy, không thể phủ nhận việc tâm tình có ảnh hưởng không nhỏ tới phủ tạng nói riêng và sức khỏe nói chung. Do đó, con người không nên bị tâm tình điều khiển, mà phải chủ động nắm bắt và làm chủ cảm xúc của chính mình.

3. “Khí dĩ hành huyết, huyết dĩ bổ khí”
Đây là quan điểm khẳng định mối liên hệ của khí – huyết. Theo đó, khí giúp máu (huyết) lưu thông, máu lại đóng vai trò bổ khí.
Người bình thường nhìn lâu sẽ tổn máu, nằm lâu thương khí, ngồi lâu hại thịt, đứng lâu hại xương, đi lâu tổn thương gân, thất tình lục dục quá độ sẽ hư hao nguyên khí, hại tim hại thận.
Đạo gia cho rằng: Khí – huyết của con người cũng là một cặp phạm trù âm dương, trong đó máu đóng vai trò là âm, khí là dương. Hai yếu tố này có mối quan hệ tương hỗ, tác dụng qua lại và điều khiển lẫn nhau.
Thiếu khí sẽ khiến bệnh tật tích tụ, dễ bị tắc động mạch, ung thư. Ngược lại, khí quá vượng lại sinh ra những chứng bệnh về xuất huyết. Do đó, chỉ khi khí – huyết ở trạng thái cân bằng và đầy đủ, cơ thể con người mới thực sự khỏe mạnh.

4. Lao tâm quá độ, bệnh vận vào thân
Tim bị ứ đầy sẽ không tiếp nhận khí nóng của gan, đồng nghĩa với việc khí gan bị tích tụ. Gan thuộc hệ mộc, khắc với thổ là tỳ vị, khí tích ở gan sẽ khiến tỳ vị bị bệnh, dẫn đến tiêu hóa bất ổn, dinh dưỡng không ngủ, giấc ngủ không an.
Chưa kể tới việc mộc khắc thủy, mà thận nằm trong hệ thủy, gan bị tụ khí sẽ khiến thận yếu do hỏa vượng. Trong khi đó, tim thận tương liên, thận bất ổn sẽ làm tim khí càng yếu và kéo theo cả các bệnh về phổi.
Bởi lục phủ ngũ tạng đều có mối liên quan, nên một bộ phận bất thường sẽ tạo ra nhiều hệ lụy khôn lường.

5. Động sinh dương, tĩnh sinh âm
Đây chính là nguyên lý âm dương của “Kinh Dịch” được đúc kết từ cổ nhân Trung Hoa. “Động” (vận động) là nền tảng của cơ thể, chăm chỉ rèn luyện sẽ giúp tăng cường sinh lực, nâng cao hiệu suất làm việc. Trong khi đó, “tĩnh” (tĩnh tọa) lại có thể tránh được những tổn hao cho cơ thể, có tác dụng kéo dài tuổi thọ.
Theo đó, chúng ta không nên lúc nào cũng tìm cách ăn uống bổ thận, tráng dương, mà hãy nhớ rằng: vận động sẽ sinh ra dương, tĩnh tọa có thể sinh âm. Âm được ví như “mẫu” (mẹ) của dương, đồng thời dương cũng tác động trở lại yếu tố âm.

6. Bổ khí tuy cần nhưng phải đúng cách!
Người ở vào giai đoạn thiếu khí, không nên mù quáng làm đủ mọi phương pháp để bổ khí, nếu không sẽ “lợi bất cập hại”.
Nếu rơi vào tình trạng thiếu khí do thiếu máu, việc cần làm trước tiên là bổ máu, bởi máu được ví như “mẹ” của khí. Ngược lại, khi bị thiếu khí do khí huyết không lưu thông, chúng ta lại cần tẩm bổ cả hai cả khí và huyết.

7. Con người là một phần của tự nhiên
Không thể phủ nhận yếu tố môi trường có sức ảnh hưởng không nhỏ đối với quá trình dưỡng sinh. Đây cũng là lý do nhiều người bệnh thường tìm đến những nơi rừng núi thanh tịnh để an dưỡng và chữa trị, kết quả họ đã khỏi bệnh. 
Bởi những nơi rừng sâu núi thẳm thường có không khí chứa anion (ion âm). Thông qua sự thả lỏng của người bệnh, những ion âm này sẽ thẩm thấu vào bên trong cơ thể, tự động nuôi dưỡng ngũ tạng, lục phủ, khiến cho người bệnh giống như được hồi sinh.
Bên cạnh đó, còn có một điểm trọng yếu mà ít người trong số chúng ta biết rõ là cơ thể con người không chỉ hô hấp bằng mũi và miệng mà còn thông qua các lỗ chân lông. Đặc biệt, đây còn là nơi có thể hấp thụ “những tinh hoa của đất trời”.

8. “Thuận theo tự nhiên” là cảnh giới dưỡng sinh cao nhất
Thuật dưỡng sinh xưa gắn liền với triết lý của tu luyện Đạo gia. Khi một người xuất hiện trên đời, số phận của họ đã được an bài sẵn. Theo đó, nếu chúng ta có thể thuận theo vận mệnh, điều gì đến cũng dùng Thiện tâm mà đối đãi, như vậy ắt sẽ luôn được bình an vô sự.
Người có “ngộ tính” sẽ nhanh chóng đoán biết được vận số của mình, hiểu rõ điều gì nên làm, điều gì nên tránh.
Đó cũng là lý do mà việc dưỡng sinh không đơn giản chỉ mang tính bắt chước, bảo sao làm vậy. Chúng ta không thể sống theo người khác, mà phải đi từ trong tâm để tìm được “ngộ tính”, nắm bắt được số mệnh của mình.
Như vậy, làm thế nào để biết được bản thân mình có đang “thuận theo tự nhiên” hay không? Việc này kỳ thực rất đơn giản: Nếu bạn có bệnh hoặc không được thoải mái, đó chính là hậu quả của việc “làm trái tự nhiên”, cần chú ý điều chỉnh lại tâm thái và hành vi.

9. Bệnh là 7 phần do tâm mà ra
Tâm thân không thể tách rời. Thân thể mà không có ‘phần tâm’ thì cũng không khác gì một tảng thịt. Thực ra suy nghĩ và bệnh tật có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bởi vậy, có rất nhiều căn bệnh sinh ra là do trạng thái tinh thần, thậm chí là ảo giác, cũng gọi là bệnh tưởng.
Những căn bệnh ấy cho dù dùng thuốc trị liệu cũng không khỏi, chỉ có thể lại chính từ tâm mà hóa giải. Vậy mới nói, tâm tình có thể sinh bệnh mà cũng có thể chữa bệnh.

10. Ngũ hành tương sinh tương khắc ngay trong chính cơ thể
Hơn 2 thiên niên kỷ trước đây, cổ nhân Trung Hoa đã khám phá ra thuyết Ngũ Hành với đặc tính tương sinh – tương khắc. Ngũ Hành cấu thành nên vạn sự vạn vật, bao gồm cả cơ thể người.
Theo Trung Y, tính tương sinh – tương khắc của Ngũ Hành sẽ đảm bảo cho năng lượng lưu thông, nuôi dưỡng và duy trì công năng bình thường của tạng phủ.
Các cơ quan trong cơ thể đều phụ thuộc vào nhau, một bộ phận bị nhiễm bệnh sẽ kéo theo cả cơ thể bị bệnh. Đó chính là vòng tương sinh.
Lục phủ ngũ tạng cũng được xếp vào các phạm trù thuộc Ngũ Hành và nằm trong quy luật tương sinh – tương khắc. 
(Hình minh họa: Internet)
Ngược lại, vòng tương khắc là sự ức chế lẫn nhau của tạng phủ. Ví dụ như tim đập quá nhanh sẽ khiến phổi bị ức chế, gây khó thở; thận quá lao lực lại khiến tim bị bệnh; gan bị rối loạn sẽ khiến hệ tiêu hóa bất ổn…
Bởi vậy, phàm là những bệnh liên quan tới ngũ tạng, ta có thể dựa vào tính tương sinh – tương khắc của ngũ hành mà điều trị.
Tú Linh
Theo Secretchina
Trí Thức Trẻ

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Đọc thêm về bí quyết dưỡng sinh của người Việt cổ

1, Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.
2, Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất sơ. Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.
3, Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.
4, Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.
5, Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.
6, Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.
7, Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.
8, Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở.
9, Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.
10, Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều.
11, Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội.
12, Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.
13, Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít.
14, Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông.
15, Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối thả câu, lựa chọn sở thích tự do chơi.
16, Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa.
17, Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.
18, Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.
19, Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.
20, Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái, tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.
21, Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.
22, Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.
23, Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.
24, Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu, chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.
25, Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.
26, Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.
27, Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông.

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

Hỏi đáp về đọc tượng số chữa bệnh

Chữa bệnh bằng "Thần dược số", liệu pháp đọc "Tượng số bát quái" được giới thiệu trên tạp chí "Trung hoa khí công" số 4 năm 1993 đã gây tiếng vang lớn trong quảng đại quần chúng, phương pháp này đã được hai bác sỹ họ Lý là Lý Kiện Dân và Lý Ngọc Sơn biên tập lại và đặt tên là Chữa bệnh theo Chu Dịch

Thường xuyên, liên tục, đều đặn hằng ngày đọc (niệm) những chuỗi số thể hiện bệnh trạng cũng là một cách dưỡng sinh chữa bệnh, làm não bộ hoạt động tích cực,  kích thích phát lộ các khả năng tiềm ẩn của cơ thể con người như: tự tổ chức, tự thích nghi, tự điều chỉnh và tự tái tạo...
Đó chính là công phu luyện Ý hồi phục sức khỏe, dưới đây là phần trả lời hỏi đáp về đọc tượng số tự chữa bệnh theo chu dịch của các tác giả. 
Liệu pháp tượng sô bát quái bản thân cũng là một loại khí công tại sao không gọi tên là công pháp mà lai gọi là liêu pháp?
Một là liệu pháp tượng số bát quái lấy hạt nhân là học thuyết bát quái, lý luận đông y lấy tượng số bát quái là liệu pháp khí công, nó không giống như khí công nói chung, gồm một sô động tác phải cần đến một số yêu cầu nào đó về mặt điều thân, điều tâm, điều ý; nó là "tự nhiên", "tự do", "tự vi"; 
Hai là liệu pháp này tùy cho từng người để lập số biện chứng thi trị lấy trị bệnh là chính do đó là liệu pháp phù hợp với thực tê hơn.
Khi niệm tượng số tại sao không lệ thuộc vào thời gian địa điểm, tư thê, phương vi, mà có thê niệm tùy ý, đi ngồi hoặc nằm.
Vì tượng số bát quái là hình ảnh thu nhỏ của thiên đạo, vật đạo, nhân đạo, nó đều bao hàm các tin tức vũ trụ phong phú. là môi giới của "thiên nhân hợp nhất". Cho nên bản thân mỗi một mã tượng số đều mang theo những tin tức tương ứng, trong quá trình niệm có thê điều chỉnh tự nhiên trường bát quái của cơ thể làm cho cộng hưởng đồng bộ với trường bát quái vũ trụ. vì thế không ràng buộc (tên thời gian, địa điếm, tư thế,phướng vị và có thể niệm tùy lúc. tùy nơi. trong khi đi, ngồi, nằm của sinh hoạt hàng ngày. Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt, như có người bệnh đã theo một phương vị nhất định, niệm với thòi gian nhất định để tăng cường hiệu ứng của tin tức thòi gian, không gian.
 Khi lập tượng sô qua niệm không thích hợp,phải điều chỉnh nhóm sô khác, thì thời gian giãn cách bao lâu là thích hơp.
Khi niệm nhóm tượng số, nếu xuất hiện những hiện tượng không thích hợp thây từ đầu, dạ dày và tim, cũng có thể do lập số sai, hoặc do bản thân người bệnh vì khí huyết không lưu thông có kinh lạc bị tắc nghẽn, vẫn có thể thử niệm, hay thử niệm nhóm sau đó. Nhưng khi người bệnh có xuất,hiện cảm ứng rõ ràng, thì hãy tạm nghỉ; đợi sau khi được hoãn giải lại niệm thử.
 Khi niêm sô thì niêm như thê nào?
Nói chung khi niệm thì niệm không thành lời hoặc phối hợp với ý niệm. Tốc độ niệm nên chỉ trung bình, không nhanh cũng không chậm, nhanh quá  dễ bị nóng, chậm quá dễ bị lạnh. Giữa các nguyên nên dừng một chút.
 Ý nghĩa của sô "0" ở trước và sau tượng sô là thê nào?
Trường hợp chung số 0 đặt sau tượng số, ngoài công hiệu làm mạnh các tín hiệu tượng số và thông kinh lạc ra, còn có hiệu quả điều hòa. Nếu gặp các bệnh cấp tính hoặc các bệnh ngoan cô",thì trước và sau tượng số đều có thể thêm số 0 có tác dụng cường hóa. Mặt khác do âm dương có lúc thịnh lúc suy khác nhau, và số" 0 trước và sau tượng sô" cũng không giống nhau. Trường hợp chung, khi thiên về âm hư hoặc dương thịnh, thì sô" không được đặt ở phía trước sô”. Ngược lại, được đặt tại phía sau số. Khi lập số trên lâm sàng còn phải căn cứ vào tính của âm dương sinh ra do số 0 là chẵn hay lẻ (số 0 chẵn, là âm, 0 lẻ là dương cần phải được vận dụng linh hoạt).
 Trong quá trình niệm liệu pháp tượng số, đa sô người bệnh thuộc loại rõ ràng, có rất ít người bệnh thuộc loại ngầm, hiệu quả của nó ra sao?
Trường hợp chung, đa số bệnh nhân trong quá trình niệm số, có thể xuất hiện đầu nhẹ  nhõm, sáng mắt. thần khí thoải mái, mát nóng, hành khí v.v... với những cảm giác dễ chịu khác nhau. Loại cảm ứng này, nói chung trong quá trình niệm chỉ cần mày phút hoặc mười mấy phút là đã xuất hiện nên thuộc loại rõ ràng. Còn có rất ít trường hợp phải niệm tới nửa giờ hoặc dài hơn nữa mới xuất hiện cảm ứng thì thuộc loại ngầm.Người loại bệnh rõ ràng, nói chung chữa tương đôi nhanh, còn người loại bệnh ngầm thì tương đối chậm, tuy nhiên hiệu quả chữa trị vẫn là ổn định.
 Liệu pháp tượng sô có thê phôi hợp với các liêu pháp khác hoặc khí công?
Thông thường có thể phôi hợp các phương pháp chữa trị khác nhau như châm, ấn huyệt v.v... Khi dùng liệu pháp này thì không nên phôi hợp với các loại khí công khác, vì có một số khí công có ảnh hưởng tới liệu pháp tượng số.
 Trong quá trình điều trị bằng liệu pháp tượng số, không những chữa khỏi bệnh cần chữa ngay mà thường thường lai chữa được cả các bênh khác kèm theo nữa, vây tai sao?
 Chỉnh thể quan, bình hoành quan, vận động quan của vũ trụ là nguyên lý mà liệu pháp tượng số làm căn cứ. Cho nên bất cứ lập nhóm số nào hợp lý đểu tác dụng trực tiếp vào cục bộ, ngoài ra nó còn tiến hành điều chỉnh chỉnh thể, để trường bát quái của người vận động chấn với trường của bát quái vũ trụ, dễ điều hòa khí cân bằng âm đương làm cho toàn thân được điều chỉnh.
 Tai sao niêm sô, thường làm cho người ta hết mệt mỏi và tinh lực tăng cường
Khi niệm số, do trực tiếp điều tiết trường bát quái cơ thể, làm kinh lạc cơ thế khai thông, cộng chấn với trường bát quái thiên thể, càng lợi cho việc tiếp nhận tin tức của trường bát quái vũ trụ. bổ khí của cơ thể, làm tinh lực tăng trưởng, không thấy mệt mỏi.
 Trong khi lập tượng sô nên phôi hợp với ngũ hành là tốt nhất phải không?
Đúng mà lại không đúng. Do vì thịnh suy âm dương của người bệnh khác nhau, có bệnh nhân tiếp thu được tượng số có phối hợp với thuộc tính ngũ hành, qua niệm thấy dễ chịu, nhẹ nhõm là thuộc bài niệm tốt nhất và hợp lý. Nhưng cũng có người bệnh không thế tiếp thu lập số có kết hợp thuộc tính ngũ hành. Đối với người bệnh nàv thì lập số theo ngũ hành là bài niệm không hợp lý.Tóm lại: Khi lập số sẽ phải lập biện chứng khác nhau cho từng người tức là chìa nào mỏ khóa nấy, đó mới là bài niệm tốt nhất.: cho dù là kết hợp hay không với thuộc tính ngũ hành, đều phải cộng chấn đồng bộ của trường bát quái trong và ngoài cơ thế, luôn luôn tương thông với nhau.
 Tai sao lâp tương sô đều theo thứ tư dưỡng sinh của ngũ hành?
Quan hệ giữa tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái là quan hệ thể và dụng, liệu pháp tượng số chính là vận dụng quan hệ thể dụng này. Hậu thiên bát quái lây thứ tự tương sinh ngũ hành, đem vạn sự vạn vật của thiên hạ phân loại theo ngũ hành nạp vào trong bát quái, lấy thứ tự thời gian làm thành một vòng tròn để biểu thị quy luật vận động biến hóa của vạn vật (bao gồm cả người). Cách lập tượng số của nó lấy thứ tự tương sinh ngũ hành, tức là thuận theo quv luật vận động của hậu thiên bát quái, thuận theo tượng thiên hợp nhất.
 Trong lập tượng sô chi dùng đến 8 quái số của tiên thiên bát quái, tại sao lại chữa được những chứng bệnh thiên biến vạn hóa.
Bát quái đại biểu cho 8 tính chất cơ bản của sự vật, nó có thê đại biểu cho tất cả mọi thứ, sự vật mà nó đại biểu là vô hạn cho nên các bệnh tật của con người dù thiên biến vạn hóa đều có thể căn cứ vào tượng để quy loại vào trong bát quái. Liệu pháp tượng sô”, tuy chỉ có 8 sô' của tiên thiên, nhưng có thể lập tượng số biến hóa đa đoan để điều trị bệnh.
                                                 Hai bát quái đồ theo Wikipedia
Ưu điểm của liệu pháp tượng sô là gì ?
Ưu điềm của nó là không làm tổn thương khí cho người điều trị, tiện lợi dễ dàng, phương pháp giản đơn, hiệu quả kỳ lạ, đạo lý thâm sâu, được sử dụng hàng ngày trong lúc đi, ngồi hay nằm, rất đơn giản, cách chữa bệnh nâng cao sức khỏe đúng đạo lý thiên nhân hợp nhất. Cho nên người niệm sô" mà kiên trì thường xuyên thì đều thu được hiệu quả tốt. Chỉ cần có đủ trí nhớ, tinh thần bình thường thì dù nam nữ lão ấu đều có thể thu lợi ích khi niệm.
 Tai sao lập tượng sô chỉ dùng sô từ 1 đến 8 mà không dùng 9?
Liệu pháp tượng sô bát quái là dùng số của tiên thiên bát quái tức là 1, 2, 3 ,4, 5, 6, 7, 8. Những con sô" khác không thấy ghi trong tiên thiên bát quái cho nên chỉ dùng 8 số.
 Khi niệm tượng số, nói chung bao nhiêu thời gian thì xuất hiện cảm ứng
Niệm tượng số, nói chung chỉ mấy phút hoặc mười mấy phút là đã xuất hiện các loại cảm ứng khác nhau. Thậm chí có rất ít người bệnh, chỉ nhìn thoáng con số hoặc nghĩ thoáng một cái là  có cảm ứng; cũng có một sô rất ít phải từ nửa ngày đến mười mấy ngày mới có cảm ứng. Cái gọi là cảm ứng nói chung là cảm ứng thoải mái như đầu nhẹ nhàng, sáng mắt, thần khí trong sáng, mát. nóng, hành khí v.v... Ngược lại cảm thấy khó chịu, xuất hiện ở đầu, dạ dày, tim v.v...
 Khi niệm tượng sô có cần cấm kỵ gì về ăn uống không?
Khi niệm  tượng số không có một cấm kỵ nào về ăn uống cũng như thòi gian trước và sau ăn uống, tất cả đều thuận theo tự nhiên.
 Có một sô người bênh khi niêm sô trên lâm sàng, dễ gây nên khó chịu, tại sao?
 Trường hợp này không tránh khỏi có nhầm lẫn trong lập sô". Nói chung trường hợp này và bệnh nhân này, một là do tính khí có nhiều suy tư, cũng có thế là do bệnh tình phức tạp, thời gian mắc bệnh quá dài nên gây ra kinh lạc không thông, bị tắc nghẽn rõ ràng, nên khi niệm sô" dễ gây ra khó chịu. Nêu gặp những trường hợp này có thê dùng những biện pháp sau: tức là chọn một nhóm số" 0 thích hợp mỗi
lần, cho niệm vài lần rồi thôi, nếu qua vài lần kinh lạc có thể có chấn động và có thế tiếp thu bài niệm.
Trong quá trình niệm tượng số, có một sô rất nhỏ người xuất hiện hiện tượng tương tự như "ngây ngất" thì phải đề phòng ra sao?
Quan sát quá trình người bệnh niệm số, thứ nhất trước tiên phải hảo người bệnh về những cảm ứng trong khi niệm (tức là thoải mái hoặc là khó chịu) thì báo ngay cho bác sĩ biết. Hai là bản thân người theo dõi cũng phải quan sát chú ý, hỏi han người bệnh: nói chung niệm trong 1 đến 2 phút hoặc thời gian ngắn hơn nữa là có thể hỏi cảm ứng của người bệnh. Trên lâm sàng có thể chia thành 3 loại. Loại cực nhạy, loại nhạy và loại chậm; trong đó nhạy chiếm đa số. Khi niệm nếu thấy thoải mái thì cứ tiếp tục niệm; nếu niệm thấy khó chịu thì chuyển xuống số khác. Nếu như có sự phôi hợp giữa thầy thuốc và bệnh nhân thì sẽ không có hiện tượng "ngây ngất", đợi cho bệnh nhân nằm yên ít phút là có thể trở lại bình thường.Với những  người bệnh nặng thì có thể ấn vào nhân trung, thập tuyền, hợp cốc, bách hội, lao cung v.v... hoặc có thể châm cứu, nhưng trong' lâm sàng ít gặp.
 Trong quá trình thực hiện chữa bệnh thì cần phải bao nhiêu thời gian đê đi điều chỉnh lần khác
 Trong quá trình niệm số", nếu có phản ứng tốt thì có thể giữ nguyên sô' đó, nhưng đa sô" trường hợp căn cứ vào thay đổi của bệnh tình cần phải điều chỉnh sô’ mới để đạt hiệu quả và tốt' độ nhanh nhất. Nhất là đôi với bệnh mạn tính.
 Khi niệm sổ, khoảng bao nhiêu thời gian thì có kết quả
Với người nhạy bén thường thưòng là thu được nhanh, nhưng để củng cô bệnh phải căn cứ vào bệnh tình là cấp tính hoặc mạn tính mà cho niệm thời gian dài hay ngắn khác nhau. Đợi sau khi khỏi bệnh tiếp tục cho niệm không chỉ để củng cố chữa bệnh mà còn đê nâng cao sức khỏe.
 Nên có nhiều loại bệnh thì có thê đồng thời niêm nhiều nhóm sô được không?
Không thể, dù là có nhiều bệnh, nhưng trên lâm sàng chỉ có một khái quát là "âm chứng" và "dương chứng", tức là phải lấy tổng cương của âm dương để điều chỉnh, tức là tùy theo nặng nhẹ mà điều chỉnh chỉnh thể, phải tôn trọng tuần hoàn "pháp vu âm dương, hợp vu sô" thuật”. Cho nên mỗi lần chỉ niệm một nhóm sổ”, tức được điều chỉnh có thứ tự từ từ, nếu niệm nhiều nhóm sô' một lúc dễ có phản ứng không tốt. Như ở Bắc Kinh một độc giả họ Ngô... bị bệnh da đã chọn dùng một nhóm số trong luận văn của người viết để niệm tượng sô" chữa bệnh đã thu được hiệu quả rõ ràng. Nhưng lại muôn chữa trị thêm bệnh khác lại chọn 2 nhóm sô", mỗi ngàv niệm 3 nhóm sô" nên nó đã ảnh hướng đến nhau. Nên nhớ rằng mỗi nhóm số hợp lý. dù là tượng sổ nhiều hay ít đều phải tuân theo sinh khắc chế hóa của ngũ hành, phải lập theo "thiên nhân hợp nhất"; cho nên khi chữa khỏi bệnh chính nào đó thì những bệnh kèm theo khác cũng được chữa khỏi.
Liệu pháp tượng sô bát quái có gỉ khác vói số tự công của sinh mệnh con người?
Đây là hai loại công pháp và liệu pháp hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt của nó gồm 3 điểm sau: một là chữ sô" dùng khác nhau, sô" công của sinh mệnh con người là dùng 10 sô" (gồm cả 9). Hai là: hàm ý của chữ sô" cũng khác nhau, sô" của chúng tôi đúng là tượng số bát quái là "tỷ loại thủ tượng", "dĩ tượng định sổ”. 
Còn “sô" tự công" là dùng mã sô' nhị tiến chế phản ánh hình thức xung mạch sinh vật của cơ thể, sau đó đem mã sô" nhị tiến vị phiên dịch thành chữ số thập tiến vị. Như "1" cân bằng âm dương; "2" - bình hành ba động;"3" - bình Ổn; , “4" - đại hình ba động; "5" - chậm lại, ẩm ướt, v.v...
Ba là số tự công cần phải phối hợp nhiều loại thủ ấn v.v... Còn liệu pháp tượng số thì không dùng bất cứ động tác quy định nào. Nhưng cần nói rõ liệu pháp tượng sô" bát quái tuyệt đối không bác hỏ số tự công sinh mệnh cụ  thể.
Chữa bênh theo liêu pháp này rất đơn giản,dó là ưu điểm đặc biệt của nó, nhưng nắm vững và vận dụng liêu pháp này thì không đơn giản, vây có con đường nào đê nhập môn hay không?
Chỉ cần có kiến thức cơ bản có liên quan đến bát quái và đông y, nắm vững liệu pháp này không khó. Có một con đường nhập môn là trong 101 bài thí dụ các bệnh điển hình mà tôi đã giới thiệu. Nó cũng là 101 bài thuốc kinh nghiệm (nghiệm phương), người bệnh có thể tự xem xét bệnh của mình, nếu tương tự cũng có thê áp dụng chữa được có hiệu quả nhất định. Nhưng là một người làm công tác y vụ, cần phải từ nguyên lý cơ bản nắm chắc các kiến thức cơ sở và kết hợp với thực tế của lâm sàng, cũng phải mất nhiều công phu, cũng giống nội dung của câu nói "bất chi dịch, bất túc dĩ ngôn thái y".
Liệu pháp của bà có phải bệnh của gì cũng chữa được không
Trên trần thế này không có, cũng không có thê có loại liệu pháp vạn năng, không có một loại khí công nào hoặc liệu pháp nào có thể bao quát được bách bệnh. Trong thực tiễn lâm sàng chứng tỏ, liệu pháp này có hiệu quả với trên 70 loại bệnh, trong đó có hiệu quả chữa nhanh đến tôi cũng phải sợ.

Bài viết liên quan

Đọc tượng số chữa bệnh

Ứng dụng lâm sàng đọc tượng số chữa bệnh 


                                                           Học viên lớp DSNL15-                                                                         Cơ sở 2 TDH

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

Đọc tượng số chữa bệnh

Trong thời gian luyện tập và sinh hoạt tại Câu lạc bộ dưỡng sinh năng lượng, các học viên được phát tài liệu tham khảo có tên là đọc (niệm) Tượng số bát quái, một biện pháp y học bổ xung tự điều trị trong phòng và chữa những bệnh thường gặp trong cuộc sống. Đây là một phương pháp chữa bệnh đơn giản, thực hành rất hiệu quả trong dưỡng sinh, trị bệnh mà bất cứ ai ở bất cứ đâu cũng có thể áp dụng được. 
Bài viết này không đi sâu vào cơ sở lý luận của phương pháp: chu dịch, học thuyết bát quái, học thuyết ngũ hành, học thuyết Âm Dương , học thuyết tạng tượng của Đông Y với Tượng số bát quái… mà chỉ giới thiệu sơ qua về thông tin và ứng dụng của phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc này.

Phương pháp điều trị tượng số bát quái

Đây là một phương pháp tuân thủ các nguyên lý tượng số dịch tượng, đồng thời lấy lý luận tằng tượng của Đông y làm cơ sở kết hợp với ý niệm khí công, đã sáng tạo ra một phương pháp điều trị tượng số bát quái. Đó là cách điều trị bằng khí công loại mới, thông qua người bệnh đọc niệm một nhóm tượng số bát quái được sắp xếp theo y dịch đế đạt tới mục đích chữa khỏi bệnh, nó được kết hợp hữu cơ giữa Chu dịch, Đông y và Khí công dưới sự chỉ đạo của tư tương triết học biện chứng duy vật của Chu dịch, lấy học thuyết bát quái làm hạt nhân, lấy lý luận tàng tượng của đông y làm cơ sở, lấy tượng số bát quái làm môi giới truyền đạt tin tức, đồng thời lại tiếp thu được phương pháp điều trị đơn giản, thực dụng mà kỳ diệu của nhiều thành quả nghiên cứu khoa học hiện đại.
Tượng số bát quái là hình ảnh thu nhỏ của thiên đạo, vật đạo, nhân đạo, nó đều bao hàm các tin tức vũ trụ phong phú, là môi giới của "thiên nhân hợp nhất". Cho nên bản thân mỗi một mã tượng số đều mang theo những tin tức tương ứng, trong quá trình niệm có thê điều chỉnh tự nhiên trường bát quái cua cơ thể làm cho cộng hưởng đồng bộ với trường bát quái vũ trụ, bởi vậy không ràng buộc (tên thời gian, địa điếm, tư thế, phướng vị và có thể niệm tùy lúc, tùy nơi: đi, đứng, ngồi, nằm trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt, như có người bệnh đã theo một phương vị nhất định, niệm với thời gian nhất định để tăng cường hiệu ứng của tin tức thời gian, không gian. 
Tượng số bát quái, gồm 8 quẻ, tượng và số.
Tám quẻ là càn (=), đoài .== ), ly(==), chấn (=-=), tốn (==), khảm (-_=) , cấn( —), khôn (= = ) 

Tượng của bát quái tương ứng có số của bát quái là Thiên,Trạch, Hỏa, Lôi, Phong, Thủy, Sơn, Địa, tức là số thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 của tiên thiên bát quái.  
"Bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung” tức 8 quẻ xếp thành hàng, tượng nằm trong nó. Có nghĩa là nói bát quái chia nhau đại biểu & loại tượng vật nói trên, cổ nhân nói: "Phục Hy vẽ bát quái bắt đầu từ số" tức là các số tự nhiên nói trên. Như vậy tượng và số là gắn với nhau không thể tách ra được, nó là một thực thể. được gọi "tượng dĩ định số"", "số” dĩ trưng tượng".
Dịch học cho rằng bát quái là mô thức cơ bản của kết cấu vũ trụ, tượng của bát quái là tượng trưng vạn sự vạn vật (kể cả phủ tạng cơ thế), số của bát quái là dịch số của vạn sự, vạn vật của vù trụ. Tượng số là kết quả tạo hóa tự nhiên, là căn nguyên về vận động của vũ trụ. Chính thể quan hợp nhất giữa trời và người của "Chu dịch". Thế giới vật chất là một thể tương quan với nhau, thông liền với nhau, mà bát quái là mô thức kết cấu cơ bản của nó, lớn đến thiên thẻ vũ trụ, nhỏ đến phủ tạng, tế bào của cơ thể người đều như vậy cả. Lý luận "Tự nhiên toàn tức luận" hiện đại cho rằng, toàn vũ trụ từ cách nhìn vĩ mô hay vi mô đều có luật toàn tức luận. Lý luận "luật toàn tức sinh vật" hiện đại cho rằng bất cứ một phần nhỏ nào của sinh vật đều là "hình ảnh thu nhỏ” của chính thể, giữa chính thê và cục bộ đều có liên hệ tính chất toàn tức. Như vậy Bát quái là hình ảnh thu nhỏ toàn tức của cả vũ trụ, còn cơ thê con người cũng là hình ảnh thư nhỏ toàn tức bát quái của cơ thể con người, giữa chúng đều có liên hệ về tính chất toàn tức, là một chính thể thông suốt với nhau. Khi người bệnh đọc nhẩm một nhóm số bát quái, sẽ hình thành sóng tin tức với năng lượng nào đó, những sóng này sẽ được vận chuyển từ đại não đến mọi phương vị của phủ tạng. Khi những sóng tin tức này làm thức tỉnh, kích thích phát động những tin tức bát quái tương ứng trong phủ tạng và tế bào hội tụ thành sóng tin tức với năng lượng nào đó. sô hoàn thành hai hạng mục: một là điều chinh chức năng chính thể. hai là xung kích vào các "ố’ bệnh" cục bộ. khiến các tổ chức kết cấu bái quái của ổ bệnh từ vô trật tự biến sang có trật tự. khiến trường cơ thể cộng hưởng đồng bộ với các vũ trụ, từ đó hợp nhất được trời với người, thông các kinh lạc trong cơ thể, cân bằng âm dương, điều hòa khí huyết, đạt tới mục đích chữa bệnh làm khỏe người.
Từ "Chu dịch" và các văn kiện cổ tìm được, lấy Càn là đầu, đại tràng; Đoài là mặt, tim; Chấn là chân, Can; Tôn là đùi,mật; Khảm là tai, thận; Cấn là tay, dạ dày; Khôn là bụng, tỳ. Đã tìm ra các cách ghi dùng trong các đơn thuốc trong "Thiên địa chi cốt” còn phát hiện ra cách dùng số hay của "số" trong các đơn thuốc của các danh y cổ xưa. Như trong đơn thuốc có ghi "Đại táo 6 quả" mà không cần là to, nhỏ, chẳng cần đến trọng lượng mà chi là "sáu” điều đó phải chăng là ngẫu nhiên chăng? Ở đây không chỉ là 6 quả có tác dụng dược tính của nó, mà số "6" cũng lại là mảnh cắt về tin tức, điều đó nói lên rằng các người xưa đã dùng tượng số kết hợp với thuốc trên lâm sàng. 

Đặc điểm của đọc tượng số chữa bệnh

Trên thực tiễn lâm sàng các đặc điểm của điều trị tượng s là: "tự nhiên", "tự do", "tự vi" và "mỗi chìa m một khóa", điều đó sẽ tạo ra các điều kiện có lợi mang tính phổ cập cao, còn chìa nào mở khóa nấy, đó chính là tư tưỏng minh triết, là tinh thần cầu thực của nền y học cổ truyền,chỉ cần có hiệu quả điều trị tốt, được quảng đại người bệnh tiếp thu.
Liệu pháp tượng số bát quái có tính ứng dụng và hiệu quả thực tế cao.
“Tự nhiên" là chỉ khi người bệnh đọc nhẩm tượng số, tâm trạng tự nhiên, hình thái tự nhiên, không cần có tác động đặc biệt ở bên ngoài. Cũng không cần tư thế đặc biệt nào, cũng chẳng cần ý niệm đặc biệt nào.
“Tự do" là chỉ khi người bệnh đọc nhẩm tượng số có thể tiến hành tự nhiên, tùy lúc. tùy nơi, cũng không cần chọn thời gian, địa điểm, chiều hướng, lúc trà dư tửu hậu. sớm hoặc tốì, đi, đứng, ngồi, nằm, đánh răng, súc miệng, xem ti-vi, tán gẫu... đều được.
"Tự vi" là chỉ yêu cầu người bệnh tự mình lo liệu không cần phải có nhiều người một lúc. Không cần có sự ám thị và chỉ dẫn của thầy dạy khí công, không cần khí công sư phát ngoại khí.
“Mỗi chìa mở một khóa" là chỉ điều trị cho mỗi người một khác, mỗi bệnh một khác, không phải một nhóm tượng số là dùng cho tất cả mọi người, mà là mỗi bệnh thì đều có nhóm tượng số khác nhau, tức là mỗi người, mỗi bệnh sẽ có một "số" riêng. Nó không phải là hàng vạn người tập một loại công, hàng nghìn người niệm một số, mà là chìa nào mở khóa nấy.

Đọc tượng số bát quái chữa bệnh

Khi ta đọc (niệm) tượng số chữa bệnh thì không phát ra thành tiếng hoặc phối hợp với ý niệm. Tốc độ đọc nên chỉ trung bình, không nhanh cũng không chậm, nhanh quá dễ bị nóng, chậm quá dễ bị lạnh. Giữa các nguyên (các dãy số) nên dừng một chút.
Về tổng quan, đa số bệnh nhân trong quá trình niệm số,xuất hiện những hiện tượng như đầu nhẹ nhõm, sáng mắt, thần khí thoải mái, mát nóng, hành khí v.v... với những cảm giác dễ chịu khác nhau. Loại cảm ứng này, nói chung trong quá trình niệm chỉ cần mấy phút hoặc mười mấy phút là đã xuất hiện nên thuộc loại rõ ràng. Còn có rất ít trường hợp phải niệm tới nửa giờ hoặc dài hơn nữa mới xuất hiện cảm ứng thì thuộc loại ngầm. Người loại bệnh rõ ràng, nói chung chữa tương đối nhanh, còn người loại bệnh ngầm thì tương đối chậm, tuy nhiên hiệu quả chữa trị vẫn là ổn định.

Trong quá trình niệm nếu đầu, dạ dày, tim v.v... không cảm thấy gì thì cứ tiếp tục niệm, tức là đã sản sinh tác dụng chữa bệnh làm khỏe thân thể. Quan sát thời gian người bệnh niệm các mật mã tượng số. nói chung ngắn là vài giây, vài phút; nếu dài là mười mấy phút hoặc mấy chục phút thì sẽ thấy các cảm ứng khác nhau, như xuất hiện đầu mát, mắt sáng. thân thể nhẹ nhàng, dễ thở v.v... ngược lại. nếu xuất hiện ở đầu hoặc dạ dày chưa thoải mái hoặc có cảm ứng tim đập thất thường, ngắn hơi, khó chịu v.v... thì nói chung việc lập số có sai sót. cần lập lại số mới. Có những bệnh nhân không có những cảm ứng rõ ràng nhưng kiên trì niệm thì cũng có hiệu quả tương tự.
Niệm mật mã tượng số không câu nệ vào thời gian địa điểm, tư thế, trạng thái, phương hướng, trong sinh hoạt bình thường có thể tiến hành cả khi đi, khi ngồi và khi nằm. Nếu như sau khi thả lỏng nhập tĩnh, hoặc trước khi ngủ, hoặc sau thức giấc cũng có thể niệm thì hiệu quả càng tốt. Căn cứ vào bệnh tình, thời gian mỗi lần niệm có thể dài hoặc ngắn. Lúc nào nghĩ thấy thì niệm hoặc tương niệm đều được. Tất cả đều tuân theo tự nhiên.  
Sau khi bệnh đã khỏi, có thể tiếp tục niệm như cũ để củng cố hiệu quả điều trị, vừa là đế tăng cường sức khỏe. Trong quá trình niệm các mật mã tượng số, cơ năng sinh lý trong cơ thể sẽ ở vào trạng thái điều giải, năng lượng tin tức tương ứng trong tế bào của cơ thể luôn luôn tăng lên và xung kích vào ô bệnh, khi đó những chứng trạng ở phần bị bệnh  có khả năng tạm thời nặng lên; chỉ cần đầu, dạ dày và tim không có cảm giác bất thường là có thê tiếp tục niệm.
Liệu pháp tựợng số có thề sử dụng riêng lẻ trên lâm sàng, cũng có thể phối hợp với châm cứu v.v...
Trong quá trình điều trị, căn cứ vào sự thay đối bệnh tình của người bệnh mà điểu chỉnh thích đáng tượng số, nếu trong quá trình niệm cảm thấy dễ chịu thì vẫn làm như các bài đã có, không nên thay đổi.
Những ngưòi bệnh tinh thần không bình thường hoặc trí nhớ kém thì cấm sử dụng.
Khi dùng liệu pháp này thì không nên phôi hợp với các loại công pháp khí công khác, vì nó ảnh hưởng tới liệu pháp tượng số. 

Đọc tiếp

Ứng dụng lâm sàng đọc tượng số chữa bệnh

Hỏi đáp về đọc tượng số chữa bệnh

Học viên lớp DSNL15
Cơ sở 2 TDH

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

Bài học tuyệt vời nhất của Ohsawa

Câu lạc bộ chúng ta không ít người biết và sử dụng thực dưỡng Ohsawa. Bản thân người sưu tầm bài này thỉnh thoảng vẫn dùng món "cà phê" vào mỗi sáng. Đó là tên chúng tôi vẫn gọi đùa cho món bột ăn liền gồm 9 loại ngũ cốc khác nhau đã được rang chín chỉ cần hòa với nước sôi, tùy theo nhu cầu pha đặc sệt như bột hoặc pha loãng hơn để uống. Vì thực phẩm có màu nâu giống màu cà phê nên chúng tôi gọi luôn như vậy. Thú thật khi mới làm quen thấy cũng khó ăn nhưng chỉ sau vài bữa thấy dễ chịu. Chỉ với 3-4 thìa bột hòa nước đun sôi tôi có thể làm việc cả buổi sáng mà không mệt. Sau khi ăn xong có cảm giác vị ngọt của ngũ cốc ở đầu lưỡi và hơi thở thơm tho suốt cả buổi sáng. Bữa sáng với Ohsawa thật nhẹ nhàng, tiết kiệm thời gian. "Ăn mà như chưa ăn".  Mỗi lần đi Côn Sơn chúng tôi tranh thủ "khuân" vài gói về ăn dần. Ngoài thực dưỡng Ohsawa còn có món "cháo trai", chúng tôi vẫn gọi vậy vì khi quấy lên, cho thêm một ít nấm hương thái nhỏ, ta có một tô cháo thơm ngon với hương vị y như cháo trai. Thỉnh thoảng đoàn thiền dã ngoại của CLB trước khi rời Côn Sơn vẫn được cô Dung tiễn bằng những bát "cháo trai" thơm ngon ấy. 
Xin giới thiệu một bài viết về George Ohsawa, người đã sáng lập ra cách ăn uống theo phương pháp thực dưỡng để chúng ta có thể hiểu thêm về tư tưởng của ông.

Bài học tuyệt vời nhất của Ohsawa
Carl Ferre
 "Thức ăn là nền tảng của sức khỏe và hạnh phúc." George Ohsawa
Câu nói này xuất phát trong ngành khoa học: “Chúng ta không biết, không thể biết và không bao giờ biết được”. Còn câu nói này xuất phát có trong cuộc điện thoại giữa George Ohsawa và Faith: “Chúng ta biết, luôn biết và sẽ luôn biết”.

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Trà Gạo Lức (Brown Rice Tea)

1. Giới thiệu
Đối với trà gạo lức, nguyên liệu chính là gạo lức (brown rice) là một loại gạo chỉ xay bỏ trấu chứ không bỏ mầm và cám của hạt gạo bên trong. Thành phần gạo lức chứa khá nhiều chất dinh dưỡng có tác dụng ngăn ngừa và chữa bệnh. Theo Dr. Hiroshi Kayahara, giáo sư khoa sinh học và kỹ thuật sinh học tại viện đại học Shinshu University in Nagano, báo cáo trong hội nghị hoá học quốc tế "the 2000 International Chemical Congress of Pacific Basin Societies" ở Hawaii (www.rice.com.vn) rằng "gạo lức đã ngâm nước chứa gấp ba lần chất lysine, một loại amino acid cần thiết cho sự tăng trưởng và bảo trì các mô tế bào cơ thể con người, và chứa mười lần nhiều hơn chất gamma-aminobutyric acid, một chất acid tốt bảo vệ bộ phận thận".

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

Gạo lứt

(Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
 Nguồn ảnh: Internet
Gạo lứt, gạo lức, gạo rằn hay gạo lật là loại gạo chỉ xay bỏ vỏ trấu, chưa được xát bỏ lớp cám gạo. Đây là loại gạo rất giàu dinh dưỡng đặc biệt là các vitamin và nguyên tố vi lượng.
Thành phần dinh dưỡng
Thành phần của gạo lức gồm chất bột, chất đạm, chất béo, chất xơ cùng các vitamin như B1, B2, B3, B6; các axit như pantothenic (vitamin B5), paraaminobenzoic (PABA), folic (vitamin M), phytic; các nguyên tố vi lượng như canxi, sắt, magiê, selen, glutathion (GSH), kali và natri.
Ở gạo trắng qua quá trình xay, giã, 67% vitamin B3, 80% vitamin B1, 90% vitamin B6, một nửa lượng mangan và hầu hết chất xơ đã bị mất đi. Các chuyên gia dinh dưỡng cũng nhận thấy, một lon gạo lức khi nấu thành cơm chứa 84 mg magiê, trong khi đó ở gạo trắng chỉ có 19 mg. Lớp cám của gạo lức cũng chứa một chất dầu đặc biệt có tác dụng điều hòa huyết áp, làm giảm cholesterol xấu, giúp ngăn ngừa qua các bệnh tim mạch.

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

BÍ QUYẾT SỐNG LÂU

GS Tề Quốc Lực
Hiện nay tuyệt đại đa số chết vì bệnh, rất ít người chết vì già. Lẽ ra phải ngược lại. Hiện nay nước Nhật Bản đạt quán quân thế giới. Tuổi thọ trung bình ở nữ giới của họ là 87.6 ; còn ở Trung Quốc là 67.88 tuổi; kém tuổi thọ trung bình ở Nhật Bản đúng 20 tuổi.
Ở Nhật Bản mỗi tháng mọi người tập trung nghe giảng bài một lần về sức khỏe, ai không đến nghe thì phải học bù. Trpong khi đó ở Trung Quốc đại bộ phận không biết gì đến giữ gìn sức khỏe, sống được sao hay vậy, vấn đề rất nghiêm trọng. Những người chết bệnh rất đau khổ...
Trên thế giới, người ta có ra một tuyên ngôngồm 3 cái mốc. Mốc thứ nhất gọi là ăn uống cânbằng, thứ hai là vận động có oxy, thứ ba gọi là trạng thái tâm lý.

1. ĂN UỐNG CÂN BẰNG
Nhiều người vẫn nghĩ rằng giữ gìn sức khoẻ chẳng qua là ngủ sớm dậy sớm. Ở thời nhà Đường thì có thể nói vậy, chứ ngày nay nói vậy thì cực kỳ thiếu hiểu biết, có nhiều điều đã thay đổi. Nói ăn uống cân bằng, có hai chuyện là ăn và uống.
Trước hết nói về uống
Khi ở Đại Học Bắc Kinh, tôi hỏi sinh viên: Đồ uống nào tốt nhất? Sinh viên đồng thanh trả lời: Côca cola. Mỹ không thừa nhận, quốc tế cũng không thừa nhận, nó chỉ có thể giải khát, chứ không có bất cứ tác dụng nào cho giữ gìn sức khoẻ. Sản phẩm bảo vệ sức khoẻ là gì, mọi người nên biết, nó phải có khả năng chữa bệnh. Cho đến bây giờ, tuyệt đại bộ phận người Trung Quốc còn chưa biết thế nào là sản phẩm bảo vệ sức khoẻ. Ở các hội nghị quốc tế người ta đã định nghĩa ra 6 loại đồ uống bảo vệ cho sức khoẻ: trà xanh, rượu vang đỏ, sữa đậu nành, sữa chua (người ta không nói đến sữa bò nói chung, bạn nên chú ý), canh xương, canh nấm.
- Vì sao nói canh nấm? Vì canh nấm có thể nâng cao công năng miễn dịch. Có người bị cảm, có người không ốm bao giờ, vì sao vậy? Vì công năng miễn dịch khác nhau. Uống canh nấm có thể nâng cao sức miễn dịch, cho nên đó là sản phẩm giữ gìn sức khoẻ.
- Vì sao nhắc đến canh xương? Trong canh xương có chất uyển giao (một chất keo) kéo dài tuổi thọ. Cho nên đừng coi thường canh xương.
- Vì sao nhắc sữa chua? Vì sữa chua cân bằng vi khuẩn. Cân bằng vi khuẩn được duy trì có nghĩa là vi khuẩn có ích thì sinh trưởng, vi khuẩn có hại thì tiêu diệt, cho nên ăn sữa chua thì có thể ít mắc bệnh. Ở Châu Âu, sữa chua rất phổ biến. Bản thân sữa bò rất tốt nhưng nó kém xa sữa chua.
- Vì sao uống trà xanh? Ngày nay rất nhiều người uống trà, nhưng thanh niên ít uống. Vì sao trà xanh có tác dụng bảo vệ sức khoẻ? Nguyên nhân trong trà xanh có chứa chất có thể chống ung thư. Nhật Bản làm tổng điều tra người trên 40 tuổi. Vì sao có người mắc ung thư, có người không? Điều này có liên hệ đến việc uống trà xanh. Nếu anh uống mỗi ngày 4 chén trà xanh, thì tế bào ung thư không bị chia cắt, mặc dù có chia cắt cũng muộn lại 9 năm trở lên. Cho nên ở Nhật Bản, học sinh tiểu học hằng ngày đi học đều uống một chén trà xanh.
Thứ hai xin chú ý, trong trà xanh có chứa fluor, nó chẳng những có thể làm bền răng mà còn chữa được sâu răng, diệt vi khuẩn. Sau bữa ăn 3 phút, đốm khuẩn răng đã xuất hiện. Hiện nay rất nhiều người, sau khi ăn, chẳng những không súc miệng bằng nước trà, mà nước trắng cũng không. Vì thế có người 30 tuổi đã bắt đầu rụng răng, 50 tuổi thì rụng hết.
Thứ ba bản thân trà xanh chứa chất nâng cao độ bền huyết quản, khiến huyết quản khó vỡ. Rất nhiều người bị mạch máu não bất ngờ, cứ 4 người chết là có một người bị xuất huyết não.
- Trong các đồ uống, đứng thứ hai là vang đỏ: Vốn là trên vỏ quả nho đỏ có một thứ gọi là nghịch chuyển thuần (cồn chuyển ngược). Chất này có tác dụng chống suy lão, còn là thuốc chống ô-xy hoá, người hay uống vang đỏ thì ít mắc bệnh tim.
Thứ hai nó có thể giúp ta phòng ngừa tim đột nhiên ngừng đập, chúng ta gọi là đột quỵ. Trong trường hợp nào tim có thể ngừng đập? Một là vốn có bệnh tim, hai là tăng huyết áp, ba là mỡ máu cao. Rượu vang đỏ còn có một tác dụng nữa là hạ huyết áp, hạ mỡ máu. Tổ chức y tế thế giới nói rằng cai thuốc lá, hạn chế rượu, chứ có nói cấm rượu đâu, hơn nữa còn nói rõ hạn lượng rượu : rượu vang nho mỗi ngày không quá 50 - 100cc, rượu trắng mỗi ngày không quá 5 - 10cc, bia mỗi ngày không quá 300cc. Nếu anh vượt qua khối lượng đó thì sai lầm, không quá lượng đó thì tốt. Nếu không biết uống rượu, có thể ăn nho cả vỏ.
- Vấn đề tập thể dục buổi sáng: Sáng sớm dậy, quy luật của đồng hồ sinh học trong con người là nhiệt độ cơ thể cao, huyết áp tăng, hơn nữa nội tiết tố thượng thận cao gấp 4 lần buổi tối, nêu vận động mạnh sẽ rất dễ xảy chuyện dễ làm tim ngừng đập! Đi bộ, tập thể dục, đi Thái cực quyền, luyện khí công buổi sáng sớm... điều đó không có gì sai cả. Nhưng nếu người già và người trung niên sáng sớm vận động mạnh, chạy đường dài, leo núi, thì chỉ có trăm điều hại, không một điều lợi.
Bây giờ đến vấn đề thứ hai là Ăn
Mọi người nên biết kim tự tháp ở Châu Á là tốt nhất. Kim tự tháp là gì? Các loại ngũ cốc, đậu, rau rất tốt.
Trong loại ngũ cốc trước tiên nói đến ngô, gọi đó là cây vàng. Lai lịch của ngô, hội nghị y học Mỹ đã có điều tra phát hiện rằng người Mỹ nguyên thủy, người Inđi-an không ai bị tăng huyết áp, không ai bị xơ vữa động mạch. Nhưng rất nhiều người không biết, không ăn. Tôi đã kiên trì 6 năm ăn cháo ngô hàng ngày. Năm nay, tôi đã ngoài 70 tuổi, thể lực sung măn, tinh thần dồi dào, giọng nói vang vang đầy khí thế, hơn nữa mặt không có nếp nhăn. Nguyên nhân nào vậy? Do húp cháo ngô đấy, tin hay không tuỳ bạn. Bạn cứ việc uống sữa bò, tôi cứ việc húp cháo ngô, xem ai sống lâu hơn ai.
Loại cốc thứ hai là kiều mạch tại sao nhắc đến kiều mạch?
Người ta hiện nay thường có 3 cao: huyết áp cao, mỡ máu cao, đường máu cao. Kiều mạch là 3 hạ: hạ huyết áp, hạ mỡ máu, hạ đường máu.
Loại cốc thứ ba là các loại khoai: khoai lang trắng, khoai lang đỏ, củ từ, khoai tây. Những thứ này trong hội nghị quốc tế có nhắc đến. Vì sao? Vì chúng có 3 hấp thụ: hấp thụ nước, hấp thụ mỡ và đường, hấp thụ độc tố. Hấp thụ nước làm trơn đường ruột, không bị ung thư trực tràng, kết tràng. Hấp thụ mỡ và đường, không mắc bệnh tiểu đường. Hấp thụ độc tố: không mắc chứng viên dạ dày, đường ruột. Tôi cũng đã điều tra ở Mỹ, người Mỹ ăn khoai là chế biến thành các loại bánh, ăn cũng không ít. Mong mọi người ăn nhiều khoai vào, trong lương thực chính nên có các loại khoai.
Loại cốc cuối cùng là kê. Kê có thể trừ thấp, kiện tỳ, trấn tĩnh, an miên (ngủ yên); Bây giờ rất nhiều người ngồi văn phòng, đêm mất ngủ, mắc các chứng uất ức, chứng chức năng thần kinh, có người uống đến 8 viên thuốc an thần nhưng vẫn không ngủ được. Tôi khuyên mọi người đừng nên uống thuốc nữa, mà nên ăn kê, người ta ngủ được là nhờ ăn cháo kê. Cho nên bây giờ tôi đã thay đổi, sáng một bát cháo ngô, tinh thần phấn chấn, tối một bát cháo kê, rất dễ ngủ. Chữa bệnh bằng ăn tốt hơn chữa bệnh bằng thuốc.
Vì sao chúng ta không giải quyết vấn đề bằng cái ăn, mà cứ nhất định phải dùng thuốc. Mười thứ thuốc thì chín thứ là độc, chưa từng nghe nói dùng thuốc để giữ gìn sức khoẻ. Tôi cũng phải nói rõ: tôi không hề phản đối dùng thuốc. Tôi phản đối dùng thuốc bừa bãi, tôi chủ trương dùng thuốc trong thời gian ngắn, uống thuốc bình yên, nhanh chóng ngừng thuốc.
Dưới đây xin nói về đậu: Protein của một lạng đậu nành bằng hai lạng thịt nạc, bằng ba lạng trứng gà, bằng bốn lạng gạo, vậy nên ăn cái gì hơn? Chú ý : Cẩn thận khi ăn Trứng! Đậu nành là hoa của dinh dưỡng là vua của các loại đậu. Trong đậu nành có ít nhất 5 loại chất chống ung thư, đặc biệt là di hoàng đồng chất có thể phẳng và chữa ung thư tuyến vú, ung thư trực tràng và ung thư kết tràng. Cho nên đối với người da vàng chúng ta thích hợp nhất là sữa đậu nành. Sữa bò tốt hay sữa đậu nành tốt? Ở hội nghị quốc tế của liên hiệp quốc người ta nói, trong sữa bò có nhiều nhũ đường, mà hai phần ba số người trên thế giới không hấp thu được nhũ đường, người da vàng ở Châu Á có 70% số người không hấp thu được nhũ đường.
Bây giờ nói đến rau:
Loại rau nói đến đầu tiên là cà-rốt: đó là loại rau dưỡng mắt. Tối nhìn không thấy, đặc biệt là chứng quáng gà, ăn là khỏi. Nó bảo vệ niêm mạc, ăn cà-rốt lâu ngày thì ít bị cảm mạo. Người Mỹ cho cà-rốt là thứ rau làm đẹp người, dưỡng tóc, dưỡng da, dưỡng niêm mạc. Người thường xuyên ăn cà-rốt quả là đẹp từ trong ra ngoài. Người Mỹ rất chú ý đến điều này, họ ăn cà-rốt đều.
Loại rau thứ hai phải nói đến là bí đỏ: Nó kích thích tế bào tuỵ sản sinh ra Insulin. Cho nên người thường xuyên ăn bí bỏ rất ít mắc bệnh tiểu đường.
Trong các loại rau còn nhắc đến khổ qua (mướp đắng). Tuy nó đắng nhưng nó tiết ra insulin, người thường ăn mướp đắng cũng không bị tiểu đường. Bí đỏ, khổ qua người ở lứa tuổi chúng ta nhất định phải ăn luôn.
Ngoài ra người ta còn nhắc đến cà chua. Ăn cà chua không mắc bệnh ung thư, bạn đã biết chưa? Nhưng không phải ăn cà chua một cách tùy tiện. Trong cà chua có một chất gọi là chất cà chua, nó kết hợp chặt với protein làm một, xung quanh có xen-lu-lô bao bọc rất khó ra. Cho nên phải làm nóng lên, nóng đến mức nhất định nó mới ra được. Tôi mách các bạn, cà chua xào trứng gà là đáng giá nhất và canh cà chua hoặc canh trứng gà cà chua cũng rất tốt. Cà chua ăn sống không chống được ung thư, xin mọi người nhớ cho.
Tôi vừa nói tỏi ăn như thế nào? Trước hết phải thái nhánh tỏi thành từng lát, để từng lát trong không khí độ 15 phút, sau khi nó kết hợp với dưỡng khí mới sản sinh ra chất chống được ung thư, hơn nữa là vua chống ung thư.
Bây giờ nói về mộc nhĩ đen. Mộc nhĩ đen có tác dụng gì? Bệnh nhồi máu cơ tim hoàn toàn có thể dự phòng được. Có bác sĩ khuyên bạn uống Aspirin, vì sao? Có thể khiến máu đông đặc lại, không bị nhồi máu cơ tim. Nhưng hậu quả là gì? Hậu quả của việc uống nhiều aspirin là đáy mắt xuất huyết. Bây giờ rất nhiều người xuất huyết đáy mắt. Tôi khuyên mọi người đừng uống aspirin nữa. Hiện nay ở Châu Âu không uống aspirin nữa rồi. Vậy thì làm thế nào? Ăn mộc nhĩ đen. Ăn mộc nhĩ đen có hai tác dụng, trong đó có một tác dụng là khiến máu không bị đông đặc lại. Tác dụng này của mộc nhĩ đen là do một chuyên gia bệnh tim của Mỹ phát hiện, ông đã đoạt giải Nobel. Sau khi ông ta phát hiện, tất cả người Châu Âu người có tiền và có địa vị đều ăn mộc nhĩ đen, chứ không uống aspirin nữa.
Người thế nào là người cao ngưng thể chất? Xin trả lời là người thấp, to béo, đặc biệt là phụ nữ ở thời kỳ chuyển tiền mãn. Hơn nữa người thuộc nhóm máu AB càng dễ bị máu đặc cao ngưng và cổ càng ngắn thì càng dễ bệnh. Thứ nhất là đừng ăn đồ biển nhiều, thứ hai nên uống một chút trà ngon, hoạt huyết tiêu ứ, thứ ba nhất thiết chớ tức giận, hễ tức giận là máu đặc lại. Uống rượu trắng cũng dễ đặc máu, muốn uống thì uống vang đỏ, không quá 100ml.
Nếu cho anh ăn lạc thì đừng ăn vỏ.
Dưới đây nói một chút về phấn hoa. Mọi người đều biết, phấn hoa là tinh tú của thực vật, nó thai nghén sự sống, dinh dưỡng rất phong phú, là cái tốt nhất trong thực vật. Cổ đại đã có rồi nhưng chúng ta quên mất. Phấn hoa phải có 3 điều này mới dùng được: xử lý, tiêu độc, thoát mẫn.
Phấn hoa ở Nhật Bản: được dùng nhiều lắm, ở tuổi nào cũng dùng nó để làm đẹp. Người mẫu ở Pháp không ai không dùng. Có một lần, suốt một tháng liền, đêm nào tôi cũng dậy 3 lần : Thấy nguy quá, tôi ăn phấn hoa, một tháng sau trở lại bình thường. Tài liệu ghi chép cho biết tỷ lệ chữa bệnh của phấn hoa là 97%. Nếu dùng phấn hoa chữa không khỏi thì thuốc cũng không giải quyết được, cuối cùng công năng thận suy kiệt. Lại còn chứng rối loạn đường ruột phụ nữ mắc rất nhiều, bí đái có tính chất tập quán. Rất nhiều người uống thuốc đi ngoài mà mắc ung thư trực tràng, ung thư kết tràng. Phấn hoa có một tên gọi là cảnh sát đường ruột, sau khi ăn phấn hoa, có thể duy trì trật tự đường ruột. Thứ ba, nó làm đẹp khoẻ mạnh, duy trì thể hình. Ba tác dụng lớn của phấn hoa không thể coi thường.
ĐỘNG VẬT
Người ta nói ăn động vật bốn chân không bằng ăn con hai chân, mà ăn con hai chân không bằng ăn con nhiều chân. Nếu trong bữa ăn có cả thịt lợn và thịt dê, thì ăn thịt dê, có thịt dê và thịt gà thì ăn thịt gà; có gà và có cá thì ăn cá; có cá và tôm thì ăn tôm. Động vật càng nhỏ thì protein càng tốt. Liên hiệp quốc đề nghị mọi người ăn nhiều gà và cá. Tại sao không khuyến nghị ăn tôm? Không phải là không khuyến nghị mà là tôm quá đắt, khó phổ cập. Nếu có tôm, thì ăn tôm là tốt. Giờ đây tôi nắm một nguyên tắc thế này: nếu có tôm thì tôi ăn vài con tôm. Vài con đó đủ nhiều protein hơn anh ăn đầy một bụng thịt bò. Cá thì dễ phổ cập hơn. Protein của cá một giờ là hấp thụ được, tỷ lệ hấp thụ là 100%, còn protein của thịt bò là 3 tiếng đồng hố mới hấp thụ được. Cá đặc biệt thích hợp cho người già, đặc biệt là người cơ thể suy nhược. Tất nhiên là tôm tốt hơn cá. Quốc tế đã điều tra vùng tuổi thọ nổi tiếng nhất là Nhật Bản, vùng tuổi thọ của Nhật Bản là ven biển, mà ven biển tuổi thọ cao nhất là vùng địa phương ăn cá. Đặc biệt là ăn cá bé, tôm bé, đặc biệt phải ăn cả con cá (ăn cả đầu lẫn đuôi) vì có chất hoạt tính, mà chất hoạt tính thì ở đầu và bụng cá bé, tôm bé.
Còn một nguyên tắc nữa là phải nắm vững lượng, chứ không phải ăn càng nhiều càng tốt. Trên quốc tế có quy định: Đấy là khoa học, chứ không phải mua cá chọn con to là tốt. Ăn no 7 phần 10, suốt đời không đau dạ dày, ăn 8/10 là tối đa, nếu ăn no 10/10 thì 2/10 kia vô ích. Cho nên quốc tế khuyến nghị tỷ lệ vàng là 0.618 : lương thực phụ 6, lương thực chính 4 ; lưong thực khô 6, lương thực tinh 4 ; thực vật 6, động vật 4. Rong biển rất tốt cho sức khỏe. Một gram rong biển bằng 1000 gram tổng hợp tất cả các loại rau, dinh dưỡng đặc biệt phong phú, rất toàn diện, phân bổ dinh dưỡng rất cân bằng hơn nữa là thức ăn kiềm tính.
Ở Nhật Bản, mỗi năm họ tiêu thụ 500 tấn rong xoắn ốc (Spiruline). 8 gram rong xoắn là có thể duy trì sự sống 40 ngày. Ngoài ra nó rất quan trọng đối với một số bệnh như tim mạch, tăng huyết áp, tăng mỡ máu, tiểu đường... Ưu điểm lớn nhất của rong xoắn là khiến cho bệnh nhân bị bệnh tiểu đường không bị biến chứng, có thể ăn uống như người bình thường. Bệnh nhân tiểu đường thiếu năng lượng, lại không được ăn đường, rong xoắn là đường khô, hấp thu đường khô vào là có năng lượng. Bệnh nhân tiểu đường, đường máu không ổn định, sau khi dùng rong xoắn có thể dần dần ngừng thuốc, sau đó dần dần có thể ngừng rong xoắn, cuối cùng khống chế bằng rong mềm. Đối với bệnh viêm dạ dày, loét dạ dày, rong xoắn có chất diệp lục có tác dụng khôi phục đối với niêm mạc dạ dày. Rong xoắn còn có tác dụng phòng bức xạ. Khi trạm điện hạt nhân của Liên Xô bị nổ, chuyên gia Nhật Bản đi cứu người mang theo rong xoắn, tác dụng chống bức xạ của nó rất mạnh. Bức xạ ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta, nhưng có mấy cách có thể dự phòng: thứ nhất uống trà xanh; thứ hai là ăn rau xanh, cà-rốt ; thứ ba là ăn rong xoắn; thứ tư là ăn tảo phục khang. Tảo phục khang là tốt nhất. Tùy theo điều kiện kinh tế của mình mà chọn lấy một cách. Bức xạ thì ai cũng có thể tiếp xúc. Quốc tế đã từng cảnh cáo: nhất thiết chớ để đồ điện trong phòng ngủ. Nhất là lò vi sóng, đối với chúng ta nguy hại lớn nhất, trong vòng 7 mét nó có thể bức xạ đến chúng ta. Và các đồ điện, không nên mở cùng một lúc. Vừa có tivi vừa có tủ lạnh, lại vừa có lò vi sóng, bạn làm thức ăn ngay bên cạnh, thì bạn mắc ung thư là không oan uổng gì.

2. VẬN ĐỘNG Ô-XY
Có một kinh nghiệm thành nguyên tắc, nhất thiết đừng luyện tập sáng sớm. Xin khuyến nghị các vị tập luyện vào chiều tối. Các nhà khoa học đã quy định, ăn xong 45 phút sau hãy vận động. Mà người già vận động đi bách bộ là được, chỉ cần đi 20 phút. Muốn giảm béo không dùng phương pháp này, nửa giờ đến một giờ trước bữa ăn, ăn 2-4 hạt rong xoắn, sau đó sẽ giảm được cảm giác muốn ăn mà lại không thiếu dinh dưỡng. Người Châu Âu giảm béo toàn dùng rong xoắn.
Thứ hai là thời gian ngủ dậy, quốc tế quy định là 6 giờ sáng để bạn kham khảo. Thời gian mở cửa sổ, quốc tế quy định là 9-11 giờ, buổi chiều là 2-4 giờ. Vì sao? Vì sau 9 giờ, không khí ô nhiễm lắng xuống, chất ô nhiễm đã giảm bớt, không có hiện tượng phản lực. Sáng dậy mở cửa sổ, đừng có thở nhiều ở đó, vì chất gây ung thư, chất phản lực đều chạy hết vào trong phổi bạn, dễ bị ung thư phổi. Quốc tế đã cảnh cáo, 6-9 giờ sáng là lúc dễ gây ung thư nguy hiểm nhất.
Không thể nói chung chung rằng ngủ sớm dậy sớm là khoẻ. Cả đêm bạn đã hít đầy bụng khí cacbonic ở trong nhà, trong đường hô hấp đã có hơn 100 loại độc tố rồi, lại chạy vào rừng cây, buổi sáng trong rừng cây lại toàn là cacbonic. Tập luyện buổi sáng, huyết áp cơ sở cao, thân nhiệt cơ sở cao, thượng thận tuyến tố cao gấp 4 lần buổi chiều tối, người có bệnh tim bẩm sinh rất dễ sinh chuyện. Trong rừng cây, phải đợi khi mặc trời lên, ánh mặt trời có phản ứng với chất diệp lục mới có thể sản sinh ô-xy. Lúc trong rừng toàn khí cacbonic, rất dễ trúng độc, rất dễ mắc ung thư. Mùa hè ngủ sớm dậy sớm, mùa đông không nên đi tập buổi sáng sớm mà đổi sang tập buổi tối. Cũng không phải là người như thế nào cũng đều ngủ sớm, dậy sớm khoẻ người cả, người cao tuổi đừng có bật dậy mạnh. Có người bật một cái là dậy, thoắt một cái là nhồi máu cơ tim chết luôn.
Quốc tế người ta nói, người ngoài 70 tuổi nên dậy thong thả, duỗi tay duỗi chân cử động vài cái, rồi xoa bóp tim một lúc, ngồi vài phút rồi hẵng đứng lên. Như vậy sẽ không làm sao cả. Cho nên tuổi tác khác nhau, thời tiết mùa vụ khác nhau thì phải lựa chọn các cách khác nhau.
Dưới đây, xin nói về ngủ trưa. Quốc tế quy định rồi, ngủ trưa hay không ngủ trưa khỏi phải tranh luận. Trước kia, Nhật Bản không chủ trương nếu đêm hôm trước không ngủ tốt thì nên ngủ trưa. Thời gian ngủ trưa nên là nữa giờ sau bữa ăn trưa, và tốt nhất nên ngủ một tiếng đồng hồ, ngủ lâu quá không có lợi cho sức khoẻ. Không nên đắp chăn dày.
Buổi tối đi ngủ vào lúc nào? Xưa nay chúng tôi không đề xướng ngủ sớm dậy sớm. Khái niệm ngủ sớm dậy sớm cần làm rõ. Nếu 7h tối đi ngủ, 12h đêm dậy lục đục vớ vẩn thì không ích gì. Chúng tôi chủ trương 10-10h30 đi ngủ, vì ở hội nghị quốc tế người ta đã quy định, một giờ đến một giờ rưỡi sau đi vào giấc ngủ sâu là khoa học nhất, như thế thì 12h đêm đến 3h sáng, 3 tiếng ấy sét đánh cũng không nhúc nhích, không có làm gì hết, 3 tiếng đồng hồ ấy là giấc ngủ sâu. Nếu 3 tiếng ấy ngủ tốt thì hôm sau dậy tinh thần sẽ rất thoải mái. Nếu anh ngủ sau 4h, thì đó là giấc ngủ nông. Biết cách ngủ và không biết cách ngủ là rất khác nhau. Chúng tôi chủ trương từ 12h đến 3h sáng ngủ say như chết và trước khi đi ngủ tắm nước nóng, như vậy chất lượng giấc ngủ rất cao.

3. TRẠNG THÁI TÂM LÝ
Nếu trạng thái tâm lý không tốt thì anh ăn uống tập luyện cũng vô ích. Tức giận thì dễ bị khối u, cả thế giới đều biết. Trường đại học Stan-pho đã làm một cuộc thí nghiệm nổi tiếng, lấy ống mũi đặt lên mũi cho anh thở, rồi sau đó lấy ống mũi đặt lên bãi tuyết 10 phút. Nếu băng tuyết không đổi màu thì chứng tỏ anh bình tĩnh, tự nhiên, nếu băng tuyết trắng lên chứng tỏ anh có điều hổ thẹn day dứt, nếu băng tuyết tím đi chứng tỏ anh tức giận. Rút lấy 1-2cc chỗ băng tuyết tím đó tiêm cho chuột con thì 1-2 phút sau chuột con sẽ chết.
(GS Tề Quốc Lực là một người Mỹ gốc Hoa. Ông đã từng làm việc cho Tổ chức y tế thế giới (WHO) nhiều năm. )

Thứ Năm, 22 tháng 7, 2010

ÂM DƯƠNG HÀI HÒA TRONG TRUYỀN THỐNG ẨM THỰC VIỆT

Truyền thống văn hóa ẩm thực là một mảng văn hóa trong kho tàng văn hóa vật chất và tinh thần đã có từ hàng ngàn năm. Tới nay, trong tri thức dân gian không những bao gồm sự tích luỹ hiểu biết tường tận những loại thực phẩm, mà còn biết kết hợp hài hòa, liên kết hợp lý giữa chúng trong một bữa ăn, và ngay trong cả một món ăn như nem gián, lẩu mắm, ốc hầm chuối già, thịt vịt nấu chao, thịt trâu riềng mẻ, thịt chó mơ lông + riềng mẻ.
Trong phong cách ăn uống của dân tộc ta, cơ sở để đánh giá các món ăn là tính nhiệt (nóng), hàn (lạnh), bình (mát), ấm (giữa nhiệt và bình). Cơ sở này cũng được dùng trong y học cổ truyền khi bốc thuốc Nam hay thuốc Bắc. Thức ăn có vị chua, vị đắng thuộc "bình" hoặc "ấm"; mặn thuộc "ấm".Những thực phẩm có tính nhiệt và ôn; vị cay, vị ngọt đều thuộc "dương". Còn thực phẩm có tính hàn và bình, có vị chua, vị đắng và vị mặn đều thuộc "âm".
Trứng vịt lộn ăn với gừng và rau dăm
Các vị thức ăn được phân loại quy về âm dương và ngũ hành. Chiếu vào ngũ hành thì chua thuộc "mộc", đắng thuộc "hỏa", ngọt thuộc "thổ", cay thuộc "kim" và mặn thuộc "thủy".
Các nhà y học cổ truyền với thuyết âm - dương cho rằng, khi ăn vào, thức ăn sẽ tạo ra những biến đổi trong cơ thể, như làm cho cơ thể nóng/ấm lên tạo cảm giác hưng phấn, hay làm cho cơ thể mát mẻ, dễ chịu. Ngược lại, thức ăn có thể làm cho người ta cảm thấy bức rứt khó chịu, hay cảm giác bị ức chế, nặng nề. Nếu chọn thức ăn có tác dụng điều hòa cơ thể đến thế cân bằng âm - dương, thì có thể giữ được trạng thái thoải mái, hưng phấn, khỏe mạnh. Nghiên cứu xác định được tính vị của mỗi loại thức ăn thì có thể chọn được thức ăn góp phần chữa cho mỗi căn bệnh, hợp với thể trạng của mỗi bệnh nhân. Thức ăn dương tính có tác dụng ôn dương, như hành, gừng, hồ tiêu, rượu, thịt dê. Thức ăn âm tính có tác dụng thanh nhiệt, bổ âm, như bạc hà, dưa hấu, ba ba.
Nguyên lý "Tương sinh, Tương khắc" giữa các yếu tố được y học cổ truyền vận dụng trong cách ăn uống chữa bệnh. Tính vị thức ăn được phân loại theo âm - dương: chua là cực âm. Cay là cực dương. Từ âm tới dương là: chua; ngọt; mặn, đắng, cay. Chua cho ta cảm giác thanh, nhẹ mát. Cay sẽ tạo ra cảm giác nóng, tăng sự tuần hoàn của máu. Khi kết hợp hài hòa trong một món ăn cả chua lẫn cay sẽ có khả năng kích thích dịch vị rất mạnh, do có sự giao hòa âm - dương tương xứng.
Như vậy, sự kết hợp hài hòa những chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn không những phải bảo đảm về chất lượng và số lượng, mà còn cần đạt được cân bằng về âm dương ngũ hành, những nhân tố cơ bản của sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người, cũng như của cả vũ trụ. Tất cả đều dựa trên cơ sở lập luận như sau:
Tự nhiên cũng như con người đều chịu ảnh hưởng tương khắc tương sinh của âm dương. Từ thái cực hỗn mang biến hóa sinh ra lưỡng nghi, hay âm dương. Âm dương kết hợp với nhau thành ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành theo dòng vận động mà kết hợp với nhau tạo thành Tam Tài: trời, đất và người bao trùm lên tất cả.
Về vai trò của gia vị trong kết hợp âm dương trong món ăn - vị thuốc.
Các nhà y học phương Đông đã khái quát vấn đề ăn uống và sức khỏe nâng lên thành học thuyết "Y thực đồng nguyên". Nội dung cơ bản của học thuyết này được xem là phép ăn uống chữa bệnh. Trong công trình nghiên cứu về thuốc sớm nhất, có niên đại hơn 2.000 năm trước còn giữ lại được, đã khuyến cáo có những loại thức ăn đồng thời cũng là những vị thuốc có giá trị chữa bệnh rất cao, như gia vị gừng, tỏi, và các loại khác như muối, vừng, hạt sen, ngó sen, long nhãn, táo, nho,... Khi nào bệnh nặng thì mới nên kết hợp giữa ăn uống và dùng thuốc, kết hợp giữa Đông y và Tây y.
Một món ăn được coi là ngon lành phải đạt được sự cân bằng giữa hàn, nhiệt, ôn, bình, nói chung là giữa âm và dương. Sử dụng đúng cách các gia vị có hương vị làm dấy lên mùi thơm ngon, vừa có tác dụng kích thích dịch vị, vừa có tác dụng trung hòa hàn nhiệt, cân bằng âm dương, làm cho người ăn không phải chịu những phản ứng phụ có hại. Một số ví dụ:
Chất gia vị gừng đứng đầu các chất dùng làm thức ăn có tính "nhiệt", có thể dùng để trung hòa hàn nhiệt, giải độc, giải cảm. Khi dùng thức ăn có tính hàn hay bình, nhất là đối với người có "máu hàn", mà không có gừng thì dễ bị rối loại tiêu hóa, thể hiện ở đi cầu (đại tiện) không bình thường. Cụ thể là, khi dùng món ăn có tính hàn như thịt trâu, thịt bò, thịt vịt, rau cải, cải bắp, bí đao,... hay có tính bình như rau khoai lang,... thì cần phải có gia vị gừng với vai trò trung hòa âm dương, cũng để ăn ngon miệng hơn.
Để giải cảm, nếu là sốt cảm hàn thì dùng cháo gừng; còn như khi bị sốt cảm nóng thì dùng cháo hành.
Ớt cũng thuộc loại có tính nhiệt, tính bình, có tác dụng giải độc. Ớt được dùng với nhiều món ăn mang tính hàn và bình như cá, cua, mắm, nem chua.
Tỏi có tính âm, hơi nhiệt, nên ăn với thịt trâu, thịt vịt, mang tính bình, hơi hàn.
Lá chanh, hay chanh mang tính ôn, hơi hàn một chút, có thể trung hòa tính âm của thịt gà./.

GsTs. Nguyễn Văn Luật