Có một nơi mọi người đủ mọi lứa tuổi, từ mọi nơi, gặp nhau mỗi tuần một lần, hàng tháng cùng nhau đi dã ngoại để luyện tập, để cười vui, để chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện. Đó là chính là Câu lạc bộ Dưỡng sinh Năng lượng thuộc chi hội y học Esperanto - Hà Nội của chúng tôi. "Vui, khỏe, sống có ích cho đời" là mục tiêu của Câu lạc bộ chúng tôi.
Đề nghị ghi rõ nguồn http://luatamuoi.com/ khi sao chép những bài viết chia sẻ từ trang Câu lạc bộ DSNL.
Mọi liên hệ xin gửi về một trong 3 địa chỉ ở mục LIÊN HỆ. Xin trân trọng cảm ơn."

Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2019

GIỚI THIỆU THƠ CỦA HỌC VIÊN TỪ XA

THIỀN LỬA TAM MUỘI 

  Trần Đăng Hưng     
     Ngày ngày ngồi thiền LỬA TAM MUỘI 
     Cặn bã trong thân được tiêu trừ 
     Mầm mống bệnh tật dần tan hết 
     Thân, Tâm thanh thản rộng đường tu 
5/7/2019 

Kỷ niệm 10 năm theo dòng Thiền Lửa Tam Muội 
Lần đầu tôi biết đến thiền Lửa Tam Muội vào khoảng năm 2010. Theo giới thiệu của bài báo, tôi đã vào trang CLB DSNL và biết ở Hà Nội có nhiều người thiền theo dòng Lửa Tam Muội. Người đầu tiên tôi liên lạc và được giúp đỡ là chị Nguyễn Hoàng Vân, sau đó được giới thiệu với Thầy Thường và theo lớp thiền ở nhà Thầy cho tới khi bị tai biến vào cuối năm 2012. Tuy không đến được lớp nhưng tôi vẫn thiền Lửa Tam Muội tại nhà cho tới nay. Tôi có may may mắn dự một buổi liên hoan kỷ niệm ngày thành lập CLB và tham gia hai buổi dã ngoại Côn Sơn cùng lớp thiền. Nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập CLB DSNL kính chúc CLB phát triển tốt đẹp, anh chị em tham gia CLB vui khỏe, tu tập tinh tiến.” 
(Trích đăng và biên tập từ chia sẻ của bác Hưng trong nhóm CLB trên Facebook ngày 16/5/2019)

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

Buông


Buông đi cho nhẹ cõi lòng
Buông đi tham vọng sinh lòng từ bi
Buông đi những thứ sân si
Buông đi những thứ tự ti trong lòng
Buông đi những cái vốn không
Buông đi cho sạch để lòng thanh cao
Buông đi nhẹ nhõm làm sao
Buông đi tất cả để vào hư không.

(Nguồn: Thầy Phạm Mạnh Thường)

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

THĂM TRƯỜNG XƯA

Năm mươi năm về trường Gia Lộc
Ngôi trường xưa mái ngói đơn sơ
Trời mưa, sân lấm vùi bùn đất
Hàng cây con cháy nắng lơ thơ
                      ***
Những học sinh mười lăm, mười sáu
Áo mỏng manh, chân đất tới trường
Bữa cơm nghèo, độn thêm khoai, sắn
Vẫn hồn nhiên, chân chất, dễ thương
                      ***
Rồi những năm chiến tranh loạn lạc
Thầy trò đi sơ tán vùng quê
Lớp trát bùn, mái tranh xơ xác
Chiếc mũ rơm sớm tối đi về
                     ***
Qua bao năm, bầy chim tung cánh
Tỏa bay đi khắp nẻo đường đời
Chúng tôi, người lái đò chở khách
Chở con đò đến bến tương lai
                      ***
Hôm nay, trường đẹp to hoành tráng
Sân trường rợp mát bóng cây xanh
Dãy lớp học sơn vôi bừng sáng
Vườn hoa tươi thơm ngát trong lành
                      ***
Năm mươi năm, cùng nhau tụ hội
Em kỹ sư, nhà giáo, ngân hàng
Em bác sỹ, em đi bộ đội
Nằm lại nơi đâu...dạ xốn xang!
                      ***
Gặp nhau đây, tóc đều điểm bạc
Mừng vui, xúc động đến nghẹn ngào
Nắm chặt tay, rưng rưng nước mắt
Kỷ niệm xưa...Ôi tha thiết làm sao!
                       ***
Trách thời gian sao trôi nhanh thế?
Chưa kịp hàn huyên chuyện xa gần
Hẹn năm sau gặp nhau, bạn nhé!
Chiều muộn rồi, níu giữ đôi chân........



Trịnh Thu Phong (học viên lớp Thiền 6)
Kỷ niệm ngày họp mặt sau 50 năm ra trường
của khóa học sinh tôi làm chủ nhiệm đầu tiên
ở trường cấp 3 Gia Lộc - Hải Dương (1963-1966)

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

2 BÀI THƠ CỦA LỚP THIỀN 4

Vần thơ ngẫu hứng 
                                                   (Nguyễn Thị Năm - lớp Thiền 4)
Tu thiền chẳng mất tiền mua 
Luyện thiền mất chút thời gian thôi mà 
Mình ơi luyện tập cùng tôi 
Đẩy lui bệnh tật sống vui tuổi già 


(Một lần nữa con xin tạ ơn Đức thầy tổ Đa Si Ra Na Ra Đa đã để lại Pháp môn này cho chúng con luyện tập. Chúc thầy chủ nhiệm cùng toàn thể thầy cô giáo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, an lành)
*
**
***
Tự sự   
(Kim Bảng - Lớp Thiền 4)
                   
                                                                            
                                                Tôi học thiền 
                                                Đã bốn năm 
                                                Nhưng tiếp thu 
                                                Chưa được mấy 
                                                Nhưng tôi thấy 
                                                Người khá hơn 
                                                Từ tinh thần 
                                                Đến thể chất 
                                                Nhờ có thiền 
                                                Đã giúp tôi 
                                                Vượt qua đi 
                                                Bao sóng gió 
                                                Nên từ đó 
                                                Tôi quyết tâm 
                                                Phải học thiền 
                                                Cho thật tốt.

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Bài thơ hay về NGHIỆP

Sáng ra Thu đọc được bài thơ hay của tác giả Thái Bá Tân viết về NGHIỆP. Xin chia sẻ cùng mọi người.
NGHIỆP 
            Nhân Quả trong tiếng Phạn 
          Được gọi là Karma, 
          Thường hay dịch là Nghiệp, 
          Phiên âm thành Yêt Ma.
                                     Nghiệp dẫn tới Quả Báo, 
                               Liên tiếp mãi không thôi, 
                               Tạo thành Luật Nhân Quả, 
                               Trong vòng lớn Luân Hồi.

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

CHÂN HẠNH PHÚC

(Hàn Vũ)
Ngày lại đến khi đêm còn thao thức
Tối quay về lúc nắng vẫn suy tư
Mãi đi xa tìm định luật bù trừ
Mà lơ đễnh bỏ quên nơi thực tại.

Ai cũng biết đời không là mãi mãi
Nhưng cứ hoài tìm cái khổ cho tâm
Ngược thời gian suy kim cổ thăng trầm
Thầm hỏi đời đâu là ”Chân Hạnh Phúc”

Tạm gác lại chuyện hơn thua vinh nhục
Để đi tìm chân hạnh phúc nơi xa
Chạm vách đời rách mướp mảnh hồn ta
Mới chợt hiểu hạnh phúc bên ta đó.


Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013


Có những điều vẫn làm ta xúc động
Như tình yêu với cuộc sống bao la
Sáng tinh mơ chim rộn rã hót ca
Chiều lãng đãng trăng ghé qua đầu núi

Thân phận người đôi khi nhiều buồn tủi
Cả cuộc đời theo đuổi bóng phù du
Hạnh phúc nào như lá thắm ngày thu
Điều được mất như mây mù xa vắng

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

ĐƯỢC...! ĐƯỢC...!

Sống mà cứ được thế này được quá cả nhà nhỉ. :)

Sống một kiếp người, bình an là Được
Hai bánh bốn bánh, chạy được là Được
Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là Được
Người xấu người đẹp, dễ coi là Được

Người già người trẻ, miễn khỏe là Được
Nhà giàu nhà nghèo, hòa thuận là Được
Ông xã về trễ, miễn về là Được
Bà xã càu nhàu, thương mình là Được

Tiến sỹ cũng được, bán rau cũng được
Tất cả phiền não, biết xả là Được
Kiên trì cố chấp, biết quên là Được
Bạn bè xa gần, nhớ nhau là Được

Không phải có tiền việc gì cũng Được
Tâm tốt, việc tốt số mệnh đổi Được
Ai đúng, ai sai Trời biết là Được
Tích đức tu thân, kiếp sau cũng Được

Thiên địa vạn vật, tùy duyên là Được
Có rất nhiều việc, nhìn xa sẽ Được
Nói nhiều như vậy, hiểu được là Được
Vẫn còn chưa hiểu, xem lại là Được.
(Sưu tầm)
 Ảnh: Lâm Thanh

Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012

Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ

Robert Rojdesvensky 
Thái Bá Tân chuyển ngữ
"Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ...!"
Một vé trở về giấc mơ màu cổ tích
Bút mực, truyện tranh...những tiếng cười khúc khích.
Bàn có năm người và một bịch bỏng ngô.

Cho tôi về cái thời biết tập tô
Vẽ ông mặt trời cười hiền hiền như bố
Cột tóc hai bên lon ton chào khắp phố
Chiếc xắc xinh xinh đựng những món đồ hàng.

Cho tôi về chơi lại ô ăn quan
Bắn chun, ùn đẩy rồi xếp hàng vào lớp
Kéo áo bàn trên mượn bút chì, tẩy, thước...
"Mày ơi!", xòe tay là được hạt ô mai...

Cho tôi xin một vé, không hai
Vé một chiều chẳng còn đường quay lại
Cho tôi về tuổi thơ tôi mãi mãi
Ngủ với trăng sao trong những giấc mơ dài...

Ở một nơi nào đấy xa xôi....
Có thành phố như giấc mơ im ắng ...
Một dòng sông lẳng lặng...
Một dòng sông nước như gương lờ trôi...
Ở một nơi nào đấy xa xôi...
Có thành phố ngày xưa, có thành phố...
Nơi rất ấm tuổi thơ ta ở đó...
Từ rất lâu... Đã từ lâu... trôi qua...

Ðêm nay tôi bước vội khỏi nhà.
Đến ga...xếp hàng mua vé...
"Lần đầu tiên trong nghìn năm, có lẽ ...
Cho tôi xin một vé đi Tuổi thơ...
Vé hạng trung!"
Người bán vé hững hờ...Khe khẽ đáp: "Hôm nay vé hết!"
- "Biết làm sao! vé hết....Biết làm sao!"

Ðường tới Tuổi thơ còn biết hỏi nơi nào?
Nếu không kể đôi khi ta tới đó
Qua trí nhớ của chúng ta...từ nhỏ...
Thành phố Tuổi thơ - Thành phố truyện thần kỳ....
Cơn gió đùa tinh nghịch dẫn ta đi....
...Ôi thành phố Tuổi thơ - Bài ca ngày nhỏ...
Trái đất nhiều đường...từ thành phố Tuổi thơ
Chúng tôi lớn....Đi xa....
Hãy tin và Thứ lỗi.....
"Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ"...


Город детства - Эдита Пьеха
 
Green fields - Đồng xanh 
Lời việt: Lê Hựu Hà - Ca sĩ: Duy Quang
 

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

Người cao tuổi

 Bác Hồ với người cao tuổi (Nguồn ảnh: Internet)
Người cao tuổi soi mình vào quá khứ
Qua ngày xanh dào dạt sức thanh tân
Để cống hiến cho đời, không do dự
Tự nhủ lòng chẳng phí một thời xuân.

Người cao tuổi bao đắng cay từng trải
Bao dại khôn thắng, bại trong đời
Bao kinh nghiệm tháng năm gặt hái
Tài sản chăng? lưu lại mọi người.

Người cao tuổi không xa rời xã hội
Không tạm yên trong tổ ấm gia đình
Chung nhịp thở với non sông đổi mới
Chân đã run còn khua gậy bước nhanh.

Người cao tuổi đậm đà tình bầu bạn
Khi đánh cầu, khi tập võ, khi câu thơ
Ưa tập luyện, giữ tấm lòng thanh thản
Buổi thu chiều vẫn vui sống say sưa.

Người cao tuổi ta già xòe bóng mát
Bên lớp măng thẳng vút xanh tươi
Ngày nào đó hình hài về với tiên tổ
Hồn thảnh thơi không thẹn một kiếp người.
Tác giả Đỗ Quang Liên
(CLB NT)
Chú thích: Bài thơ do bà Trần Thị Tỵ gửi đăng. Tác giả chép tặng bà ngày 5/5/2003 nhân chuyến cựu học sinh 3 trường cũ ở Hà nội trước cách mạng tháng 8 đi thăm quan tượng đài Trần Hưng Đạo.

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

Bài thơ "Thầy của con"

 T.T Thích Tấn Đạt
Bài thơ "Thầy của con" do Thượng tọa Thích Tấn Đạt, Uỷ viên Thường trực Hội đồng Trị sự, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Hoằng Pháp Trung Ương sáng tác. Đây là một bài thơ hay và đã được trích đăng trên mạng. Xin giới thiệu bài viết với tiêu đề "Nghĩ về bài thơ THẦY CỦA CON" của thầy Giác Hải.  

Nghĩ về bài thơ THẦY CỦA CON
Giác Hải 
Tôi đọc được bài thơ “Thầy của con”, trong một dịp thật tình cờ. Có một chú tiểu nho nhỏ, ngây thơ cầm trên tay cuốn “Nội san Hòa Khánh”, chuyên đề “Nhớ ơn giáo dưỡng”.
Không hiểu sao chú ấy cứ đọc lui đọc tới, đọc thật say sưa, hình như là chú đang cố học thuộc lòng thì phải? Từ đằng xa, tôi nghe tiếng được, tiếng mất:
“Thầy là … ánh sáng … đời
… là nơi con tìm …”

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

HẠNH PHÚC Ở ĐÂU?

Ta đang mải mê đi tìm hạnh phúc 
Sóng gió, lao vào! Bão tố, cũng chen!
Mải ngóng xa, và mải ngước nhìn lên
Mà ao ước
...mà đắn đo
...được mất!
Ngày lại ngày ta lao vào cơn lốc.
Được, được thêm, được nữa vẫn chưa yên.
Bỗng khi nào chợt ngoảnh lại nhìn bên
Hạnh phúc
... ở ngay
... bữa cơm rau ấy.
Phạm Đình Thiết

Trên đây là bài thơ của thầy giáo DN tặng lớp nhân ngày gặp mặt kỉ niệm 40 năm ngày tựu trường. Thầy là một nhà sư phạm có tâm "trồng người". DN và các bạn rất quí trọng thầy.

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2011

Một bài thơ hay

 Nguồn ảnh: Internet
Ở Câu lạc bộ chúng ta nhiều người biết và thích bài thơ "Còn gặp nhau". Bài thơ đã được in trong quyển Kỷ yếu 5 năm thành lập CLB. Khi đó do chưa có đủ thông tin nên chỉ ghi "sưu tầm". Hôm qua tình cờ Thu biết được tác giả của bài thơ là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, một trong những nhà thơ nổi tiếng của xứ Huế. Xin được giới thiệu một bài thơ nổi tiếng khác của bà, bài thơ "Hãy cho nhau". Cảm ơn anh Trần Quang Trung, người đã gửi cho Thu bài thơ này.

Hãy cho nhau
Tôn Nữ Hỷ Khương
Một cơn gió nhẹ thoảng qua
Dễ đưa ta đến lìa xa cõi đời
Để kết thúc một kiếp người
Mong manh như giọt sương rơi đầu cành!

Thế mà cứ mãi quẩn quanh,
Ghét ghen, sân hận, tranh dành, hơn thua.
Đang là bạn, hóa ra thù,
Đang thân thiết, bỗng thờ ơ lạnh lùng.

Cùng trong cõi tạm sống chung
Chơi vơi bể khổ - mênh mông đất trời

Hãy cho nhau những nụ cười,
Hãy cho nhau trọn tình người - niềm vui
Hãy cho nhau vị ngọt bùi,
Hãy cho nhau vạn ngàn lời yêu thương,
Tròn câu hiếu đạo, cương thường.

Đọc thêm về nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương TẠI ĐÂY.

Thứ Năm, 13 tháng 1, 2011

PHÉP DƯỠNG SINH

(Lời dạy của Hải Thượng Lãn Ông)
 Nguồn ảnh: Internet
Bỏ giận để nuôi dưỡng tinh.
Ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần.
Bớt nói năng để nuôi dưỡng khí.
Chậm ham muốn để nuôi dưỡng tâm.
Nhìn lâu thì hại mắt tổn huyết.
Ngồi lâu thì hại tỳ tổn thịt.
Đứng lâu thì hại thận tổn xương.
Nằm lâu thì hại phế tổn khí.
Lòng yêu thương gì thì cũng đừng nên quá yêu.
Lòng ghét bỏ thì cũng đừng nên quá ghét.
Mùa xuân, mùa hạ nên dậy sớm.
Mùa đông, mùa thu nên ngủ sớm.
Ngủ muộn đừng quá lúc rạng đông.
Dậy sớm đừng trước khi gà gáy.
Muốn nuôi dưỡng thân thì:
- Nuôi dưỡng tỳ trước.
Muốn nuôi dưỡng tỳ vị thì phải:
- Nuôi dưỡng tâm trước.
Muốn nuôi dưỡng tâm thì phải:
- Nuôi dưỡng thần trước.
Muối nuôi dưỡng thần thì phải:
- Nuôi dưỡng khí trước.
Muốn nuôi dưỡng khí thì phải:
- Nuôi dưỡng tinh trước.
Muốn nuôi dưỡng tinh thì phải:
- Nuôi dưỡng trí trước.
Muốn nuôi dưỡng trí thì phải biết quí bản thân mình.

Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2011

THƠ RƠI

(Thân tặng các bác trong CLB DSNL)

Ngồi buồn nhặt mấy vần thơ,
Gửi người trong hội ước mơ cuộc đời.
Những vần thơ dù hợp, dù rời,
Song thơ để lại tình người đắm say.

Chúng ta đang sống hôm nay,
Trải qua bao thử thách đắng cay, ngọt bùi.
Hôm nay vui với mọi người,
Trong câu lạc bộ của tôi thân tình.

Gửi vần thơ nhặt linh tinh,
Cùng vui, rèn luyện thân tình bên nhau.
Chẳng cần rào trước đón sau,
Vì rằng ta đã coi nhau một nhà.
Tháng 7/2006
Phạm Mạnh Thường

Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2010

CHỮ NHẪN

Có khi Nhẫn để yêu thương
Có khi Nhẫn để tìm đường tiến thân
Có khi Nhẫn để chuyển vần
Thiên thời địa lợi nhân tâm hiệp hòa
Có khi Nhẫn để vị tha
Có khi Nhẫn để thêm ta bớt thù
Có khi Nhẫn tỉnh giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu ai tường
Có khi Nhẫn để vô thường
Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai !
Có khi Nhẫn để tăng tài
Khôn khôn, dại dại nào ai tránh phòng
Có khi Nhẫn để khoan dung
Ta vui người cũng vui mừng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi Nhẫn để kiên trì bền gan
Có khi Nhẫn để an toàn
Có khi Nhẫn để rõ ràng đúng sai
Bạn bè giao thiệp nào ai
Có khi Nhẫn để kính người trọng ta
Kể ra cũng khó đó mà
Chữ Tâm, chữ Nhẫn xem ra cũng gần
Thu quí mùi
n.s.t
Bài thơ này trích trong quyển "thơ rơi" của Thầy chủ nhiệm đưa cho đọc, tôi thấy bài này hay nên chép ra đây cho mọi người cùng đọc, cùng chiêm nghiệm.

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2010

Tưởng niệm ngày Thày Tổ ra đi

Hai bốn tháng mười năm nay,
Tám sáu năm trước ngày Thày thoát sinh.
Cám ơn Thày Tổ chúng mình,
Mang Lửa Tam Muội, hồi sinh bao người.
Tăng thêm sức khỏe tuyệt vời,
Đem lại hạnh phúc, mọi người nhớ ơn.
Chúng con biết nói gì hơn,
Cùng nhau luyện tập, sớm hôm nhớ Thày.
Trên cao, chín lớp tầng mây,
Xin Thày chứng giám lòng "thành" chúng con.
Hà nội, ngày 24 - 10 -2010
Phan Thanh Hòa
 Hai vợ chồng bác Hòa đang chơi bóng bàn ở CLB Thăng Long.

Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010

CÂU CHUYỆN HÔM NAY

Về đây được sống với thiên nhiên
Cỏ cây hoa lá cũng học thiền
Cùng ta hòa nhập vào vũ trụ
Tâm hồn thanh thản giữa vô biên.

Từng bước lần theo “giấc mơ tiên”
“Nu na nu nống” chẳng mất tiền
Khí huyết lưu thông, người thêm khỏe
Nhẹ nhàng, đơn giản, thật diệu huyền.

Đợt này lớp chia hai nhóm thiền
Những người sức yếu với cao niên
Luyện công nơi cũ – nhà NGUYỄN TRÃI
Thiền xong đều khỏe về trước tiên.

Nhóm lên NGŨ NHẠC còn “thanh niên”
Sức khỏe khá hơn được ưu tiên
Đùa vui chốc lát quên mệt nhọc
Xin Thầy đừng phạt, chốn thanh thiên!

Thứ bảy, Côn Sơn đêm bình yên
Mọi người ngon giắc sau buổi thiền
Tiếng gà eo óc hai giờ sáng
Tin dữ - côn trùng cắn học viên.

Tầng dưới quan tâm ới tầng trên
Cô HUỆ, cụ THOA, mọi người lên
Được tin thầy Thường liền có mặt
Nhà sàn xao động cả bốn bên.

Khấn xin THẦY TỔ sau phát công
Thầy dùng năng lượng - phép thần thông
Cùng ba đệ tử: THOA - CHUYỀN - NGHĨA
Chữa côn trùng cắn bằng tay không.

Mọi người thăm hỏi càng thêm đông
Không biết chữa bệnh chỉ đứng trông
Ta ngồi thiền định xin THÀY TỔ
Gia hộ độ trì xua bão giông.

Chị Vân đã đỡ, môi ửng hồng
Mồ hôi vã vợi như ngồi xông
THẦY cười, “đệ tử” thêm tích cực
Nguy kịch qua rồi, trời rạng đông.

Chị Dung giám đốc rất cảm thông
Giúp Câu lạc bộ chẳng quản công
Câu chuyện hôm nay thành kỷ niệm
Tình người nhân ái quá mênh mông.

Sáng sớm tinh mơ lại lên đường
Tiết thu trên núi lạnh hơi sương
Trẻ già đua sức cùng leo dốc
Hơi thở, hoa rừng quyện mùi hương.

Đền cụ NGUYỄN ĐÁN tọa Đông phương
Trời đất giao hòa thuận âm dương
Sau thiền ai nấy đều thoải mái
Cảm tạ ơn Người qua khói hương.

Gặp lại, chia tay, thêm vấn vương
Nghe mảnh đất này như cố hương
Côn Sơn ơi tạm xa nhau vậy
Ra về mang nặng nỗi nhớ thương.
Côn Sơn 19-9-2010
Bạch Liên

Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2010

Nhà thơ Hữu Loan và bài thơ Mầu tím hoa sim

Hữu Loan với tình yêu trong Màu tím hoa sim
Từ Quốc lộ 1 đi vào thôn Vân Hoàn, xã Mai Lĩnh, huỵện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nơi nhà thơ Hữu Loan ở cách xa dễ đến gần chục km, nhưng ai cũng biết nhà ông Tú Loan để chỉ đường. Đường xa, chúng tôi cứ theo hướng ngọn núi nhỏ mà đi. Giữa vùng đồng bằng tự nhiên hiện lên trơ trọi một ngọn núi nhỏ, đấy chính là nơi mà nhà thơ Hữu Loan từng nhiều năm làm nghề thồ đá nuôi 10 đứa con của mình.
Anh chup: 7.2008
Ở tuổi 92, thật ngạc nhiên khi ông vẫn còn khỏe mạnh, tự đi lại, gọt trái cây ăn hay tự rót rượu uống mà không đổ ra ngoài 1 giọt và vẫn còn khá minh mẫn. Có những người trong đời làm đến hàng ngàn, hàng vạn bài thơ, được đăng trên nhiều báo nhưng không ai nhớ nổi đến một câu thơ, thì Hữu Loan, với chỉ vài chục bài thơ, trong đó với Đèo Cả và đặc biệt là với Màu tím hoa sim, cái tên Hữu Loan cùng bài thơ đã đi vào lòng người biết bao thế hệ. Câu chuyện tôi muốn hỏi ông cũng xung quanh bài thơ Màu tím hoa sim, và ông cũng như chiều ý, trở về quá khứ của hơn nửa thế kỷ trước...
Cái ngày chàng trai Hữu Loan được ông bà kỹ sư Lê Đỗ Kỳ, vốn là Tổng Thanh tra Đông Dương của Bộ Canh Nông mời về dạy học cho 3 người con trai là một ngày định mệnh. Ngày ấy ông 26 tuổi, ngay đêm đầu tiên ông đến, bà Kỳ đã hạ sinh một đứa con gái, cô bé ấy sau này mắt luôn mở to nhìn ông không dứt, đấy là cô em gái của cô Ninh, lúc đấy Lê Đỗ Thị Ninh mới 10 tuổi. Ông xem cô như em gái (tôi yêu nàng như tình yêu em gái) và cô cũng rất quý mến ông.
“Ngày đấy chúng tôi còn tắm chung với nhau trong thùng gỗ”. Sau một thời gian ông lên thi tú tài ở Hà Nội và đỗ hạng ưu, người Pháp muốn mời Hữu Loan vào làm thư ký ở Phủ Toàn quyền với lương rất cao nhưng do không thích Pháp nên Hữu Loan trở về Thanh Hóa dạy học. Cô Ninh ngày càng lớn và càng xinh đẹp, nết na. Mặc dù gia đình rất giàu, có tới 500 mẫu ruộng và gần năm chục người làm nhưng riêng quần áo của Hữu Loan cô không cho người làm đụng đến mà tự tay giặt ủi và xếp, cất vào tủ cho ông. Hữu Loan không biết rằng bà Kỳ rất quý mến ông nên đã có ý gả cô em gái xinh đẹp tên Nga cho ông, nhưng do cô Nga không muốn vương vấn chuyện đời mà muốn xuất gia theo đạo nên bà lại chuyển sang muốn gả con gái mình. “Lúc đấy có bao giờ tôi nghĩ chuyện tình yêu với Ninh, tôi hơn cô ấy đến 16 tuổi, lại xem cô ấy như em gái nuôi” – nhà thơ Hữu Loan nhớ lại.
Rồi ông đi bộ đội, làm Chính trị viên tiểu đoàn ở sư 304 của tướng Nguyễn Sơn, cùng đơn vị với ông có Quốc, là người anh em họ với cô Ninh. Mãi cho đến một hôm, Quốc mới tiết lộ cho ông biết là bà Kỳ cử Quốc “giám sát” Hữu Loan để đề phòng ông có tình ý với những phụ nữ khác. Hữu Loan vốn dáng người cao to, đẹp trai, nói chuỵện văn chương lại giỏi nên lúc này biết bao cô gái để ý, từ những họa sĩ Giáng Hương, nhà báo quân đội Thanh Thanh, rồi các người đẹp Thúy, Loan... Nhưng nghe Quốc nói vậy, Hữu Loan ngỡ ngàng, hình ảnh cô Ninh tràn ngập trong đầu ông. Quốc bảo với ông: “Gia đình bà Kỳ đã có ý tác thành Ninh cho anh từ lâu lắm rồi, anh không nhận lời là anh phụ lòng gia đình họ”. Thế là ông về thưa chuyện với ông bà Kỳ để xin cưới cô Ninh.
Đám cưới diễn ra rất đơn giản, là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên nên ông Kỳ cũng không muốn làm đám cưới rình rang, chỉ có ít bánh kẹo, mời dăm người khách. Câu thơ “ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới” vì cô Ninh nói với ông là vợ chồng cốt ở yêu nhau, không cần bày vẽ. Từ ngày cưới 16-2 đến ngày 29-5 cô Ninh mất là hơn 3 tháng Hữu Loan tranh thủ về phép vài lần thăm vợ, xong lại vội vàng trở lên nơi đóng quân ở Triệu Linh.
Cô Ninh chết trong một trường hợp rất đáng tiếc, trang trại làm một bến nước mới (còn gọi là bến Chuồng vì ở bên sông Chuồng) để người làm có chỗ tắm giặt. Đoạn này gần đổ ra biển nên nước chảy xiết. Buổi trưa bà Kỳ rủ cô Ninh ra tắm nhưng cô đã tắm buổi sáng nên mang quần áo ra giặt, không may trượt chân rơi xuống nước, bà mẹ quay lại chỉ thấy tóc con mình xấp xỏa trên mặt nước. Buổi trưa, người làm đi về nhà ăn cơm cả nên đến khi tìm được người ra mò thì không tìm được nữa. Mãi 3 ngày sau cô Ninh mới nổi lên không xa chỗ bến nước trong khi ở đây vốn nước chảy mạnh, có người nói do cô bị kẹt ở dưới đáy, có người bảo cô Ninh vương vấn gia đình nên không muốn đi xa... Cô Ninh hay mặc áo tím và ông cũng đã có lần dẫn cô đi chơi lên những đồi hoa sim tím và ngẫu nhiên là dọc bờ sông nơi cô chết cũng mọc đầy những hoa sim tím.
Chiếc bình hoa ngày cưới / thành bình hương / tàn lạnh vây quanh
Mãi khi Hữu Loan biết tin chạy về đến nơi thì mọi việc đã xong hết từ lâu, chỉ gặp bà mẹ ngồi khóc bên mộ con, chiếc bình ngày cưới nay được dùng để làm bình hương, chiếc bình hương đặc biệt ấy ông Hữu Loan vẫn giữ đến tận bây giờ, đặt trên bàn thờ cô Ninh. Trước đây bàn thờ có một tấm ảnh cô Ninh chụp năm 10 tuổi, nhưng vào một đêm bão lớn, nước tràn từ mái nhà xuống bàn thờ đã phá hỏng tấm ảnh duy nhất đó.
Ba người anh của cô Ninh mà ông Hữu Loan đã dạy học và đựợc nhắc đến ở ngay đầu bài thơ lúc đấy đều xung phong đi bộ đội và đang ở chiến trường Đông Bắc, không hiểu thư từ đi lại khó khăn ra sao mà họ nhận được thư báo tin em gái mất, rồi ít lâu sau mới nhận được thư báo tin em gái lấy chồng. Ít ai biết được về ba người anh đấy, người anh cả Lê Đỗ Khôi là Chính ủy tiểu đoàn, hy sinh chỉ vài giờ trước khi trận Điện Biên Phủ kết thúc. Người thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Phạm Đình Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, còn người anh thứ ba là Lê Đỗ An tức Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn - Phó Ban dân vận Trung ương.
Trở về doanh trại với nỗi đau xé lòng, Hữu Loan như người bị mất hồn. Đến một hôm, tất cả những nỗi đau đớn mất người vợ trẻ đã được Hữu Loan viết ra nhanh chóng chỉ trong có vài giờ, những câu thơ như đã được ghi khắc sẵn trong tim, cứ thế tuôn ra trên giấy, bài thơ khóc vợ của ông sau đó đã lan truyền nhanh chóng. Mãi đến những năm 1993, 1994, ông sửa lại bài thơ, thêm vào vài đoạn ở cuối. Gần 50 năm sau, lời thơ của ông vẫn như của ngày xưa:
Ai hát
vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím
có chiều hoang biết
Chiều hoang tím
tím thêm màu da diết. ..
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa:
"Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm. ..!
Màu tím hoa sim tím
Tình tang lệ rớm. ..
Ráng vàng ma và sừng rúc
điệu quân hành
Vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm chiều hoang màu tím...
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu?
- áo anh nát chỉ dù. .. lâu!
Phần thêm vào một thời cũng gây xôn xao, có những người thích phần thêm nhưng có người chỉ muốn bài thơ nguyên thủy đã ăn sâu vào tâm khảm. Hữu Loan giải thích rằng việc ông viết thêm chỉ để làm cho rõ thêm ý cuối bài.
Bài thơ đã được Phạm Duy phổ nhạc với tên gọi “Áo anh sứt chỉ đường tà”, còn Dũng Chinh cũng đã phổ nhạc thành bài “Những đồi hoa sim”, dù với hai phong cách đối ngược nhau hoàn toàn, cả hai bản nhạc đều được rất đông người biết và hát. Khi tôi hỏi Hữu Loan rằng ông thích bài hát nào nhất trong số 2 bài trên thì ông chỉ im lặng, ánh mắt nhìn ra vườn, tưởng ông nghe không rõ, tôi phải hỏi lại đến lần thứ 2 ông mới đáp hững hờ: “Tôi không để ý chuyện người ta phổ nhạc tôi”. Bà Nhu vợ ông giải thích: “Ông ấy không thích bài nào cả, vì khi phổ nhạc người ta đổi lời mất mấy đoạn rồi”.
Năm 1992 Hữu Loan đi chuyến dối già, từ đó đến nay đã hơn 15 năm ông không bao giờ bước chân ra khỏi cổng nhà nữa. Mỗi ngày, ông ra chiếc võng trong vườn, nằm nhìn ngắm các cây cối xung quanh. Gần đây người con út của ông bắt đầu tìm cách sưu tầm lại các bài thơ còn thất lạc của ông, cũng có người đưa trả lại, nhưng chủ yếu do ông Hữu Loan nhớ ra và đọc lại. Không biết bao giờ tập thơ mới xuất bản và có kịp khi ông vẫn còn sống hay không, nhưng tên tuổi Hữu Loan cũng vẫn gắn chặt với Màu tím hoa sim, được xem như một trong những bài thơ tình yêu hay nhất của thế kỷ 20.
Trà Giang, 04/08/2008
Xin mời đọc tiếp (để con trỏ vào dòng chữ Mầu tím hoa sim bên dưới và ấn chuột trái)
MẦU TÍM HOA SIM
HỮU LOAN

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010

NHỚ MỘT CHIỀU HOA SIM...

Nhớ một chiều bên nhà sàn Trung Tâm Dưỡng Sinh Côn Sơn, “chộp” được một bức ảnh hai chị (Trần Thị TỵNgô Thị Thoa, cả hai chị đều sinh năm 1929) bên bụi hoa sim tím, chạnh nhớ bài thơ “ Mầu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan mà nao lòng !

Trích dẫn ra đây vài dòng từ bài thơ đó mà tôi thấy cảm động nhất để các bạn cùng chia xẻ nỗi niềm nhé!

Bài hát phỏng theo bài thơ này cũng thật hay! Mời qúi bạn trải lòng cùng tác giả bài thơ và bài hát này!

Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
………………….
Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
……………..
Lấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về thì thương
người vợ chờ bé bỏng
chiều quê !...
Chiều hành quân, qua những đồi hoa sim,
Những đồi hoa sim, những đồi hoa sim dài trong chiều 
không hết
Màu tím hoa sim,
tím, chiều hoang biền biệt!!!